![]() |
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu toàn bộ nội dung bài chia sẻ này đến cách riêng các bạn trẻ, các bạn sinh viên thần học.
Dấu Chỉ Lớn Nhất của Mọi Thời Đại: Thiên Chúa Cha vẫn yêu thương nhân loại, nuôi dưỡng con người, bằng bánh Manna nhân loại, và Manna Thần Thiêng: Mình và Máu Thánh Con Một Ngài

Tĩnh Tâm Cuối Tuần: Dấu Chỉ Yona
“Dấu Chỉ Lớn Nhất của Mọi Thời Đại: Thiên Chúa Cha vẫn yêu thương nhân loại, nuôi dưỡng con người, bằng bánh Manna nhân loại, và Manna Thần Thiêng: Mình và Máu Thánh Con Một Ngài.”
(Từ chiều thứ Sáu 3/8-Trưa Chủ Nhật 5/8/2012)
I. Chiều Thứ Sáu 3/8: “Dấu Chỉ Lớn Nhất: Thiên Chúa là Cha vẫn tiếp tục yêu thương con người, ban lương thực hằng ngày”
Thánh Lễ:
Bài Đọc I: Giêrêmia 26, 1-9
Tin Mừng: (Kinh Lạy Cha) Matthêu 6, 7-13.
Chủ đề: Thiên Chúa, là Người Cha của chúng ta,
Đấng nhân hậu “Ban cho chúng ta lượng thực hằng ngày.”
(Manna trong Cựu Ước, đến Manna trong Tân Ước: chính là Mình Thánh, Máu Thánh của Con Một Ngài)
II. Thứ Bảy 4/8: “Dấu Chỉ của Thời Đại: Cái hố sâu thẳm giữa người Nghèo (tuyệt đại đa số) và người Dư Thừa (cực kỳ thiểu số).
1. Thánh Lễ sáng Thứ Bảy 4/8 (Lấy lại Bài Đọc I, và Tin Mừng của Chủ Nhật XVII QN):
Bài Đọc I: Sách các Vua: 2 Vua 4, 42-44
Tin Mừng: (Bánh Phân Phát) Gioan 6, 1-15
Chủ đề: Thiên Chúa, là Người Cha của chúng ta,
Qua Đức Giêsu Con Một Ngài, Ngài tiếp tục nuôi dưỡng chúng ta.
2. Chầu Mình Thánh: Đức Giêsu như Bánh Ban Phát cho mọi người; Dấu Chỉ Lớn Nhất biểu lộ Tình Yêu của Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót, giữa đại dương nghèo đói, và thiếu tình thương.
3 Bài Giảng: Dấu Chỉ thời đại: từ thế giới Toàn Cầu Hóa, Đô Thị Hóa
III Chúa Nhật XVIII, B, QN: “Dấu Chỉ của Mọi Dấu Chỉ: Bánh Trường Sinh.
Ai đến với Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa Cha, không hề phải đói; Ai Tin vào Ngài, chẳng bao giờ khát.”
Ba Bài Đọc của Ngày Chúa Nhật.
Bài Giảng IV: “Bánh Được Bẻ Ra và Phân Phát, Chén Giao Ước Trong Máu Ta”: Dấu Chỉ vượt thời gian và không gian: Lòng Trung Nghĩa của Thiên Chúa đối với con người và con người đối với Ngài và toả xuống Anh Chị Em đồng loại.”
Chiều Thứ Sáu:
Bài Dẫn Nhập
1. Lời Mời Gọi vào Tĩnh Lặng
Thế là các bạn đã đến đây, trong hai ngày Tĩnh Tâm ngắn ngủi!
Bạn đã sắp xếp và quyết tâm xa thành phố, chốn náo nhiệt của mua sắm, của âm nhạc, của phim ảnh, của ĐT di động,… để đến CĐ Bác Ái Cao Thái, bước vào tĩnh lặng để gặp gỡ Thiên Chúa của Tĩnh Lặng.
Bạn đã quãng đại làm chuyện này. Và để cho nó trọn vẹn, chúng ta sẽ dứt khoát dành trọn hai ngày Tĩnh Lặng với Thiên Chúa Tĩnh Lặng. Tựa như chúng ta lắng nghe được Đức Giêsu nói với chúng ta: “Hãy lui vào nơi thanh vắng,” để Ngài đàm đạo với chúng ta. Nhưng làm sao lắng nghe Ngài được nếu tâm hồn ta không tĩnh lặng? Vì thế,
Chúng ta sẽ giữ tĩnh lặng suốt thời gian tịnh tâm,
Và chúng ta sẽ cắt đứt với thế giới bên ngoài, bằng cách không sử dụng bất kỳ phương tiện thông tin, truyền thông nào, sau thánh lễ khai mạc như truyền thống của Trung Tâm. Xin dâng lên Chúa Giêsu và Mẹ Maria sự hy sinh nho nhỏ này để xin phước lành xuống cho hai ngày tĩnh tâm của chúng ta.
Có vẻ sáng kiến đến từ nơi bạn.
Nhưng thánh Yacôbê 1, 17 nói:
“Mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha.”
Chúng ta biết Thiên Chúa đi bước trước. Trước khi chúng ta tìm đến Ngài thì Ngài đã tìm chúng ta trước.
Đơn giản vì “chỉ mình Ngài là Đấng trường sinh bất tử, ngự trong ánh sáng siêu phàm, Đấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy” (1 Timôtê, 6, 16), và chúng ta không biết làm sao để đạt đến Ngài, kêu đến Ngài, cầu nguyện làm sao với Ngài ?
Phaolô có đáp án: Chính Thần Khí đến để bổ sung giúp chúng ta vượt lên sự yếu hèn của mình, dạy chúng ta cầu nguyện, cho chúng ta làm con để có thể gọi Thiên Chúa là “Abba, Cha Ơi!”
“Hơn nữa, lại có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả.27 Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa.” (Rom 8, 26-27)
“Thần Khí đã làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: "Abba! Cha ơi! (Rom 8, 15).
Chính vì thế, các bạn hãy vất tất cả âu lo, khắc khoải , tính toán thua thiệt, tình cảm đau khổ lên Thiên Chúa Cha, vì Ngài chăm sóc anh chị em, con cái của Ngài:
Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh chị em. (1 Phêrô 5, 7)
1) Bài Giảng Trên Núi vẽ lại một bức chân dung tổng thể về cách sống cách đúng đắn. Nó nhằm đến việc trình bày cho chúng ta làm thế nào trở nên một con người. Chúng ta có thể tóm tắt những minh kiến sâu sắc nền tảng bằng cách nói rằng ta chỉ có thể hiểu được con người dưới ánh sáng của Thiên Chúa, và cuộc sống con người chỉ có thể trở nên đúng đắn khi họ biết sống trong mối tương quan với Thiên Chúa.
Nhưng Thiên Chúa không phải là một người xa lạ tách biệt. Người biểu tỏ khuôn mặt Ngài trong Đức Giêsu. Trong những gì Đức Giêsu làm và muốn, chúng ta biết được lý trí và ý muốn của chính Thiên Chúa.
2) Nếu làm người thiết yếu là có mối tương quan với Thiên Chúa, thì rõ ràng, nói về Ngài và lắng nghe Ngài là một phần trọng yếu trong việc làm người.
3) Đó là lý do tại sao Bài Giảng Trên Núi cũng bao gồm một giảng dạy về cầu nguyện. Chính Đức Chúa Giêsu dạy cho chúng ta phải cầu nguyện như thế nào.
4) Trong Tin Mừng Mátthêu, Đức Giêsu dạy một bài giáo lý ngắn về cầu nguyện:
(i) Mục đích chính của giáo lý này là cảnh báo chống lại những hình thức cầu nguyện giả tạo.
(ii) Cầu nguyện không phải là cơ hội để phô trương với người khác.
(iii) Cầu nguyện đòi hỏi tính kín đáo (thận trọng),[2] vì nó thiết yếu trong mối tương quan yêu thương: Thiên Chúa gọi từng cá nhân chúng ta bằng một tên riêng mà không ai khác biết được như Kinh Thánh đã nói cho chúng ta:
Ta cũng sẽ ban cho nó một viên sỏi trắng,[3] trên sỏi đó có khắc một tên mới[4]; chẳng ai biết được tên ấy, ngoài kẻ lãnh nhận (Cf. Kh 2,17).
(iv) Tình yêu của Thiên Chúa đối với từng cá nhân chúng ta hoàn toàn mang tính biệt vị[5] và bao gồm huyền nhiệm vô đối không thể nào tiết lộ ra cho ai khác.
5) Một đối ngẫu giữa cầu nguyện nội tâm và cầu nguyện Cộng Đoàn: Tính kín đáo nói trên, yếu tính đích thực của cầu nguyện không loại trừ khỏi việc cầu nguyện chung.
(Chính vì thế tại CĐ Bác Ái chúng ta sẽ tham dự các buổi kinh phụng vụ với CĐ)
(i) Chính vì kinh Lạy Cha Chúng Con” là lời cầu nguyện được thốt ra qua ngôi thứ nhất số nhiều và điều này chỉ có thể xảy ra một khi chúng ta trở thành một thành phần của cái “chúng con,” (we) của con cái Thiên Chúa, thì đồng thời chúng ta có thể vươn tới Ngài[6] và vượt qua ngay những giới hạn của thế gian này.
(ii) Và mặc dù cái “chúng con” này đánh thức tận chiều sâu thẳm nhất của cá nhân chúng ta, thì trong hành động cầu nguyện, cái hoàn toàn cá nhân và hoàn toàn cộng đồng phải luôn luôn thẩm thấu vào nhau.[7]
(iii) Tương tự như mối tương quan đối ngẫu giữa hai người nam và nữ trong đời sống hôn nhân và gia đình[8] (vừa riêng với nhau, nhưng vừa trách nhiệm cộng đồng), trong mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa: Cái “chúng con” trong kinh nguyện cộng đồng và sự thân mật hoàn toàn biệt vị chỉ có thể chia sẻ với Thiên Chúa thì nối kết chặt chẽ với nhau.
6) Hình thức cầu nguyện giả tạo khác mà Chúa cảnh báo cho chúng ta là lời nói huyên thuyên, lắm lời
làm ngột ngạt tinh thần.
(i) Tất cả chúng ta quá quen thuộc với mối nguy trong việc đọc thuộc lòng những công thức theo thói quen trong khi tâm trí chúng ta lại lưu lạc ở nơi khác hoàn toàn.
(ii) Đàng khác, chúng ta cũng có trải nghiệm sống động về sự tập trung cao độ của mình, nhất khi bị thôi thúc nài xin Thiên Chúa cho một nhu cầu nào đó thiết thân nhất hoặc khi tâm hồn ta tràn ngập niềm vui, được thúc đẩy để tạ ơn Ngài vì những điều tốt lành vừa đến với chúng ta, kể cả khi chúng ta trải qua một đau khổ…
7) Người ta gọi đó là cầu nguyện trên cuộc sống, cầu nguyện hiện sinh.
Nhưng cho dù là quan trọng nhất, tương quan của chúng ta với Thiên Chúa không nên để bị giới hạn vào những hoàn cảnh nhất thời mà thôi,
Cầu nguyện phải hiện diện như viên đá tảng của linh hồn chúng ta.
8) Để điều này xảy ra:
(i) Tương quan này phải được tái sinh liên tục và cuộc sống hằng ngày của chúng ta phải được nối kết không ngừng với nó.
(ii) Chiều sâu linh hồn chúng ta càng hướng về Thiên Chúa thì chúng ta càng có thể cầu nguyện tốt hơn.
(iii) Lời cầu nguyện của chúng ta càng trở nên nền tảng nâng toàn thể hiện hữu chúng ta lên, thì chúng ta càng trở nên con người của bình an.
(iv) Lúc đó, chúng ta càng chịu đựng được đau khổ, và chúng ta càng thấu hiểu được tha nhân và mở lòng chúng ta ra cho họ.
9) Định hướng này
(i) lan tỏa và tạo dạng trên toàn thể ý thức của chúng ta, cùng lúc sự hiện diện tĩnh lặng của Thiên Chúa nằm ngay tại trọng tâm của tư duy, chiêm niệm, và hữu thể chúng ta, đó chính là cái mà các nhà linh đạo gọi là “cầu nguyện liên lỉ.”
(ii) Hay nói cách khác, tột cùng đó chính là tình yêu Thiên Chúa
(iii) Và cùng lúc, đó cũng là điều kiện và sức mạnh thôi thúc để yêu thương tha nhân.
10) Chính đó đích thực là ý nghĩa của cầu nguyện: Sự hiệp thông nội tại tĩnh lặng với Thiên Chúa. Nó đòi hỏi nuôi dưỡng và đó là lý do tại sao chúng ta cần diễn tả lời cầu nguyện bằng lời nói, hình ảnh và tư duy.
(i) Thiên Chúa càng hiện diện trong chúng ta, thì chúng ta càng thực sự có thể hiện diện với Ngài khi chúng ta thốt ra những lời cầu nguyện.
(ii) Điều ngược lại cũng đúng như thế: Cầu nguyện hiện thực hóa và sâu thẳm hóa sự hiệp thông hữu thể chúng ta với Thiên Chúa.
(iii) Thật vậy, việc cầu nguyện có thể và cần trở thành lời cầu nguyện hoàn toàn biệt vị:
Trên hết mọi sự, lời cầu nguyện của chúng ta có thể và nên phát xuất từ con tim, từ những nhu cầu, hy vọng, niềm vui, đau khổ của chúng ta, từ sự hổ thẹn vì tội lỗi của chúng ta, và từ lòng tri ân của chúng ta về những điều tốt lành.
(iv) Nhưng chúng ta cũng luôn bị đe dọa bới tính chủ quan và kết thúc bởi một kiểu cầu nguyện chỉ phản ánh chúng ta hơn là Thiên Chúa hằng sống.
(v) Vì thế, một đàng, chúng ta cũng cần sử dụng những kinh nguyện được nói lên lời mà Giáo Hội hay những người của Thiên Chúa đã trải quan những kinh nguyện thần bí với Ngài: Thánh Vịnh, Kinh Phụng Vụ.
(vi) Chính qua những cầu nguyện mang tính công thức, nhưng trước hết xuất phát từ đức tin của Israel, sau đó từ đức tin của các thành viên cầu nguyện của Giáo Hội, mà chúng ta đồng thời biết được Thiên Chúa và chính chúng ta. Những lời nguyện này chính là “trường cầu nguyện” biến đổi và rộng mở cuộc đời chúng ta ra.
11) Đàng khác, chỉ vì Thiên Chúa là Đấng ngự trong Ánh Sáng vô phương thấu đạt (1 Tim 6, 16), vượt quá tầm với của chúng ta mà chúng ta “không biết phải cầu nguyện ra sao cho phải” (Rom 8, 26), mà Thánh Vịnh và Kinh “Lạy Cha Chúng Con” đến nâng đỡ chúng ta:
(i) Thánh Vịnh chính là kinh nguyện từ Thiên Chúa đến. Qua TV, Ngài cho phép chúng ta bắt đầu lên đường hướng về Ngài. Và bằng cách cầu nguyện chung với anh chị em mình, những con người hiện giờ Chúa Cha ban cho chúng ta, đang cận kề với chúng ta, thì dần dần chúng ta cũng biết được Ngài và đến gần Ngài cận kề hơn.
(ii) Các Thánh Vịnh cũng là những lời mà Chúa Thánh Thần đã ban cho con người. Các Thánh Vịnh là Thần Khí Thiên Chúa trở thành Lời. Chính vì thế mà chúng ta mới có thể cầu nguyện với Chúa Thánh Thần “trong Thần Khí” như Đức Giêsu dạy chúng ta:
Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong thần khí và sự thật." (Gioan 4, 24)
(iii) Những gì nói trên còn được vượt quá trong kinh “Lạy Cha chúng con.” Thánh Cyprien nói: Khi ta cầu nguyện kinh Lạy Cha, ta câu nguyện với Chúa bằng những lời Chúa ban cho.
(iv) Thánh nhân còn thêm vào, khi chúng ta cầu nguyện Kinh Lạy Cha, lời hứa của Đức Giêsu trong cuộc đối thoại với người phụ nữ Samari tại giếng Giacob vào giữa trưa, đối với những ai thờ phượng thực sự, những kẻ thờ phượng Chúa Cha “trong thần khí và sự thật” (Ga 4, 23) thì nay đã được hiện thực trong chúng ta.
Ngày Thứ Bảy:
Suy Niệm Dấu Chỉ của Thời Đại: Cái hố sâu thẳm giữa người Nghèo (tuyệt đại đa số) và người Dư Thừa (cực kỳ thiểu số)
Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày
(Mt 6, 11)[9]
1) Trong kinh “Lạy Cha Chúng Con,” hóa ra lời cầu xin thứ tư mang tính “người” nhất trong mọi lời cầu xin.
Mặc dù Đức Chúa hướng cái nhìn chúng ta đến yêu tính, đến một điều “cần thiết duy nhất,” Ngài cũng hiểu và nhận ra những nhu cầu trần thế của chúng ta.
2) Trong khi Ngài nói với các môn đệ của Ngài: “Đừng lo cho mạng sống, lấy gì mà ăn” (Mt 6, 25), nhưng Ngài vẫn mời gọi chúng ta cầu nguyện cho có thức ăn, và rồi phải biết phó thác cho Thiên Chúa, vì Ngài chăm sóc chúng ta.
(i) Bánh là “hoa quả của trái đất và công lao do bàn tay con người,” nhưng trái đất sẽ không sản sinh ra được hoa quả, nếu nó không nhận lấy ánh sáng mặt trời và mưa móc từ trên.
(ii) Điều này cho thấy không phải do quyền năng của riêng chúng ta mà chúng ta làm được điều ấy. Nó giúp chúng ta tránh được cám dỗ kiêu ngạo làm cho chúng ta trở nên con người bạo lực và lạnh lùng vô tâm
Một sự kiêu ngạo kết thúc bằng cách phá hủy trái đất không thương tiếc
Hệ quả tất yếu là như thế vì nó mâu thuẫn với chân lý rằng, con người được định hướng để tự hướng đến siêu việt, và chúng ta trở nên cao cả, tự do và thật sự trở nên chúng ta chỉ khi nào chúng ta mở lòng ra cho Thiên Chúa.
(iii) Chúng ta có quyền và có trách nhiệm cầu xin những gì chúng ta cần đến. Chúng ta biết rằng cả đến những người cha trần thế cũng cho con cái họ những điều tốt lành khi con cái cầu xin họ, Thiên Chúa không thể từ chối chúng ta những điều tốt lành mà chỉ duy mình Người có thể ban cho (Cf. Lc 11, 9-13).
3) Trong việc giải thích về kinh “Lạy Cha Chúng Con,” thánh Cyprian lưu ý chúng ta đến hai chiều kích quan trọng trong lời cầu xin thứ tư. Một, thánh nhân đã nhấn mạnh đến ý nghĩa có ảnh hưởng sâu rộng của từ ngữ “chúng con” khi thảo luận về nhóm từ “Lạy Cha chúng con”, ở đây cũng thế, thánh nhân cho thấy rằng điểm quy chiếu nằm ở cơm bánh của “chúng con.”
(i) Khi ta nói: Xin Cha ban cho chúng con... Lời cầu không liên quan đến cá nhân, hay chỉ nghĩ đến bản thân mà thôi.
(ii) Chúng ta cầu nguyện trong sự hiệp thông của các môn đệ, trong hiệp thông với con cái Thiên Chúa,
(iii) Nói cách khác, khi chúng ta cầu xin cơm bánh cho chúng ta, và điều này có nghĩa là chúng ta cũng cầu xin cơm bánh cho người khác.
(iv) Vì thế những ai dư dật cơm bánh được kêu mời chia sẻ. Với lời bình luận trong thư thứ nhất cho Côrintô, thánh Gioan Chrysostom nhấn mạnh rằng
“bằng cách này hay cách khác, mỗi lần cắn một miếng bánh là một lần cắn miếng bánh thuộc về mọi người, miếng bánh của thế gian.”[10]
(v) Bằng cách diễn đạt lời cầu xin này trong ngôi thứ nhất số nhiều, Đức Chúa đang nói với chúng ta rằng “chính anh em phải cho họ cái gì để ăn” (Mc 6,37).
4) Hai, Cyprian đưa ra một nhận xét quan trọng: Những người nghèo mới xin bánh cho ngày hôm nay.[11]
(i) Lời cầu nguyện này cũng giả định sự nghèo khó của các môn đệ[12]
(ii) Người môn đệ có quyền xin những nhu cầu đời sống chỉ cho ngày hôm nay, vì họ không được phép lo cho ngày mai.[13]
Đúng thế, họ sẽ mâu thuẫn với chính họ nếu họ muốn sống mãi mãi trong thế gian này, vì trái với lời nguyện ở Luca 11, 1: ”Xin cho Triều Đại Cha mau đến. ”[14]
5) Trong Giáo Hội, chúng ta biết có rất nhiều người thuộc dân Chúa, những người hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa đến nỗi họ không tìm kiếm an toàn nào khác ngoài Ngài.
(i) Họ khuyến khích chúng ta tin tưởng vào Thiên Chúa, trông cậy vào Ngài giữa những thách đố to lớn của cuộc đời.
(ii) Đồng thời, sự nghèo khó tự nguyện của họ thật sự được hoàn toàn thúc đẩy bởi việc dấn thân cho Thiên Chúa và Nước Ngài, đồng thời còn là một hành động liên đới với người nghèo trên thế giới, một hành động mà trong lịch sử đã tạo ra những tiêu chuẩn mới về giá trị và sự tự nguyện mới để phục vụ và dấn thân cho tha nhân.
6) Hơn thế nữa, lời cầu xin cho cơm bánh chỉ cho ngày hôm nay cũng gợi lại bốn mươi năm lang thang trong hoang địa của Israel, khi người dân sống bằng bánh manna, bằng bánh Thiên Chúa gởi xuống từ trời. Mỗi người Do thái chỉ gom góp lại số lượng mà họ cần cho ngày hôm ấy. Chỉ đến ngày thứ sáu, họ mới được phép gom lại món quà đủ cho hai ngày, nhờ đó có thể giữ ngày sabát (Xh 16,16-22).
(i) Nhận được đời sống mới hằng ngày từ sự tốt lành của Thiên Chúa, cộng đoàn các môn đệ sống lại kinh nghiệm Dân Chúa lang thang theo cách thức mới, dân mà Thiên Chúa đã dưỡng nuôi cả trong hoang địa.
(ii) Vì thế, lời cầu xin cơm bánh chỉ cho ngày hôm nay mở ra viễn cảnh vượt qua khỏi chân trời của nuôi dưỡng cần đến từng ngày. Lời cầu xin này giả định rằng cộng đoàn các môn đệ gần gũi với Ngài, đi theo Ngài cách triệt để, từ bỏ mọi của cải trần gian và bám chặt vào con đường mà những ai “coi sự ô nhục của người được xức dầu là của cải quý báu hơn các kho tàng của người Ai cập” (Dt 11,26).
(iii) Tại đây, chân trời cánh chung hiện ra trước mắt, hướng đến một tương lai nặng ký hơn và thật hơn hiện tại.
7) Nhờ đó, chúng ta chạm đến một trong những từ của lời cầu xin nghe như vô thưởng vô phạt trong các bản dịch thông thường của chúng ta. Xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày.
(i) “Hằng ngày” diễn tả từ Hy lạp epiousios. Tham khảo đến từ này, một trong những học giả quan trọng về ngôn ngữ Hy lạp, giáo phụ Origen (c. khoảng 254), nói rằng không thấy từ này xuất hiện chỗ nào cả trong Hy lạp, nhưng do các Tác giả Phúc Âm tạo ra.[15]
(ii) Ngày nay có hai cách chú giải chính. Một cách duy trì rằng từ này có nghĩa là “những gì cần thiết để hiện hữu.” Đọc theo cách này, lời cầu xin xảy ra như sau: Xin cho chúng con lương thực ngày hôm nay mà chúng con cần để sống:[16] Manna đích thật của Thiên Chúa.
(iii)Trong trường hợp cho rằng cách dịch đúng là “bánh tương lai” này, thì lời cầu xin có nghĩa cánh chung, lời cầu xin tiên báo về thế giới sẽ đến, xin Thiên Chúa ban cho lương thực tương lai đã có “ngày hôm nay,” lương thực của thế giới mới, đó chính là Ngài.
(iv) Một vài bản dịch cổ ám chỉ đến hướng này. Ví dụ trong bản Vulgata của thánh Hiêrônimô, dịch lại thuật ngữ bí nhiệm epiousios như là supersubstantialis (ví dụ, siêu bản thể), do đó chỉ đến “bản thể” mới và cao hơn mà Đức Chúa ban cho chúng ta trong Bí tích Thánh như bánh thật của đời sống chúng ta.
8) Trên thực tế, các Giáo Phụ đã nhất trí về cách hiểu lời cầu xin thứ bốn của kinh Lạy Cha như lời cầu xin Thánh Thể.
(i) Theo nghĩa này, kinh Lạy Cha hiện hữu trong phụng vụ Thánh Lễ như là lời cầu xin tại bàn tiệc Thánh Thể
(ii) Cách hiểu này không lấy đi ý nghĩa trực tiếp mang tính trần tục từ lời cầu xin của các môn đệ mà chúng ta vừa cho thấy là ý nghĩa tức thời của bản văn.
(iii) Các Giáo phụ cân nhắc đến những chiều kích khác của lời bắt đầu như lời cầu xin về lương thực hôm nay cho người nghèo,
(iv) Nhưng thật ra nó cũng hướng cái nhìn của chúng ta về Cha trên trời, Đấng Tốt Lành, Đấng nuôi dưỡng con người, Người Chủ gia đình chăm sóc con cái: Nó nhắc lại Dân Chúa lang thang trong sa mạc 40 năm và họ được chính Ngài dưỡng nuôi.
9) Nhưng nếu đọc dưới ánh sáng của bài diễn từ cao cả của Đức Giêsu về bánh sự sống, (Cf. Gioan 6, 22-63), thì ta sẽ hiểu, phép lạ manna hướng ta đến một thế giới mới trong đó, Ngôi Lời, Lời Chúa vĩnh cửu, sẽ là bánh của chúng ta, lương thực của tiệc cưới vĩnh cửu.
(i) Khi chú giải lời cầu xin lương thực, ta cần nhớ đến bối cảnh rộng hơn về các lời nói và công việc của Đức Giêsu, một bối cảnh mà trong đó, những yếu tố chính yếu trong đời sống nhân loại đóng một vai trò quan trọng: Nước, bánh, và rượu, nho (như một dấu chỉ về tính chất lễ hội và cái đẹp của thế gian)
(ii) Chủ đề bánh có một chỗ đứng quan trọng trong sứ điệp của Đức Giêsu, từ cám dỗ trong hoang địa và hóa bánh ra nhiều cho đến bữa Tiệc ly.
(iii) Diễn từ quan trọng về bánh sự sống trong chương 6 của Gioan mở ra toàn cảnh ý nghĩa của chủ đề này. Diễn từ này bắt đầu với sự đói khát của dân chúng đang lắng nghe Đức Giêsu, Ngài không để họ ra về mà không có lương thực, đó là nói về “bánh cần thiết” mà chúng ta yêu cầu để có thể sống.
(iii) Nhưng Đức Giêsu không cho phép chúng ta dừng lại chỗ này và giảm nhu cầu của con người xuống chỉ thành cơm bánh, thành những nhu cầu thể lý và vật chất. vì
Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4, 4; Đnl 8, 3).
(iv) Thật vậy, phép lạ hóa bánh ra nhiều đưa chúng ta trở lại phép lạ manna trong hoang địa nhưng đồng thời nhắc chúng ta vượt khỏi hình bóng (= dấu chỉ) để đi đến lương thực đích thật của con người là Ngôi Lời, Lời vĩnh cửu từ Cung Lòng Cha, đã đến trần gian vì yêu thương
(v) Logos cũng là ý nghĩa vĩnh cửu, soi rọi mọi ý nghĩa hàm hồ của đời sống trần thế của chúng ta, cho chúng ta thấy mọi sự đã nhờ Ngài mà thành sự (Gioan 1, 3) và cả cuộc đời chúng ta luôn quy hướng về Ngài cho dù chúng ta không ý thức.
11) Ngôi Lời từ Cung Lòng Cha Nhập Thể Trở Thành Bí Tích
(i) Trong cách này, lần đầu tiên Lời vĩnh cửu trở thành manna hoàn toàn, Bánh Hồng Ân cho tương lai lại được ban cho chúng ta hôm nay.
(ii) Nơi bí tích này, Thiên Chúa đã tích hợp sự diệu kỳ Cái cực kỳ “xác thể-đang hình thành”(becoming-corporeal) này thật sự là “tinh thần-đang hình thành” (becoming-spiritual), vì chính
“thần khí mới làm cho sống, chứ xác thể chẳng có ích gì”
(Gioan 6, 63).
(iii) Khi chúng ta nghiên cứu đến sứ điệp của Đức Giêsu trong tổng thể của sứ điệp, lúc ấy không thể nào xóa bỏ chiều kích Thánh thể của lời xin thứ tư trong kinh Lạy Cha.
(iv) Tuy chúng ta xin bánh cho ngày hôm nay, và đó là điều thiết yếu, nhưng từ nay chúng ta biết lời cầu xin này cũng giúp cho chúng ta siêu việt cái thuần túy vật chất và chúng ta xin ngay cho bây giờ những gì sẽ đến “tương lai,” bánh mới và rượu mới mà Đức Giêsu trong ngày cánh chung muốn ăn và uống với chúng ta.
(v) Và khi chúng ta cầu nguyện xin bánh hôm nay cho “ngày mai,” chúng ta được nhắc nhở phải sống ngày hôm nay từ cái ngày mai, từ tình yêu của Thiên Chúa, đồng thời kêu gọi tất cả chúng ta có trách nhiệm cho nhau.
Chủ Đề: Đọc Lại, dưới Ánh Sáng Tin Mừng Các Dấu Chỉ Hàm Hồ của Thời Toàn Cầu Hóa, trong Thế Giới Đô Thị Hóa.
Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng,[17] của Công Đồng Vatican II xác định: “Hy Vọng Và Lo Âu.” Để chu toàn nhiệm vụ ấy, lúc nào Giáo Hội cũng có bổn phận tìm hiểu tường tận những dấu chỉ của thời đại và giải thích dưới ánh sáng của Tin Mừng; như vậy mới có thể giải đáp một cách thích ứng với từng thế hệ những thắc mắc muôn thuở của con người về ý nghĩa của cuộc sống hiện tại và mai hậu cũng như về mối tương quan giữa hai cuộc sống ấy. Do đó, cần phải nhận biết và thấu hiểu thế giới chúng ta đang sống với những chờ đợi, mong ước và cả tính chất thường là bi thảm của nó.” (số 4)
TOÀN CẦU HÓA VÀ ĐÔ THỊ HÓA
Dẫn Nhập
Con người đang bước vào bình minh mới của thiên niên kỷ III và nếu ngoái cổ lại đàng sau, họ có thể hãnh diện để mà nhận định như tuần báo Newsweek tháng giêng 2000 khi điểm qua các thành tựu khoa học mà nhân loại đã thu lượm được: mười năm qua con người đã làm một bước tiến dài hơn cả toàn thế kỷ trước đó; những diệu kỳ trong khoa học kỹ thuật (bản đồ gien, thụ thai vô tính, công nghệ nano đang giúp đỡ công nghệ thông tin vươn đến vũ trụ, tuổi vũ trụ, …), nền kinh tế toàn cầu với những hệ luận sâu sắc, những cải cách chính trị đáng ngạc nhiên khắp nơi, đặc biệt sự tan rã của khối Đông Âu với sự chấm dứt của cái mà ta gọi là chiến tranh lạnh.
Dưới ánh sáng của lý thuyết khoa học xã hội, hiện tượng mà ta gọi là toàn cầu hóa (TCH) đang trở thành đề tài ăn khách và xu hướng khách quan. Mặc dù không phải tất cả đều nhìn nhận lợi ích của của nó, nhưng mọi người nói đến nó, từ đất nước nghèo đến nước giàu; từ thế giới thứ ba phương Nam đến thế giới công nghiệp phát triển phương Bắc. Ngày càng có nhiều thảo luận sâu sắc về chủ đề TCH. Phải nhận thấy rằng, càng lúc càng có một môi trường chung được nhiều người chia sẻ. Nhân loại, hơn bao giờ hết cảm thấy cần phải sống liên kết với nhau hơn để cố gắng giải quyết những thách thức đang đặt ra đồng thời cùng sát cánh gánh vác các trách nhiệm đề ra cho các dân tộc. Đơn giản, ai cũng thấy TCH đang điều kiện hóa phần lớn những gì đang xảy ra bây giờ, trong đời sống con người ở mọi nơi, từ thôn quê đến thị thành, từ thế tục đến đời tu. Bước vào thế kỷ XXI, hiện tượng toàn cầu hoá là một trong những hiện tượng nổi bật nhất trên thế giới và cũng là hiện tượng được thế giới, đặc biệt các nhà tư tưởng xã hội Tây phương quan tâm nghiên cứu và tranh luận nhiều nhất từ Thế Chiến II, nhất là từ hai ba thập niên cuối của thế kỷ.
1) TCH như thế là ở khắp nơi.
(i) Những biểu hiện đặc thù TCH được tìm thấy ở mọi nơi trong đời thường, đặc biệt trong kinh tế. Trong những siêu thị lớn, bé, thậm chí những cửa hàng mua sắm đa dạng một chút ở Sàigòn này, chúng ta không khó nhận ra những kiểu quần áo mô phỏng “style” các cô ca sĩ, những người mẫu trong và ngoài nước, những đĩa nhạc của các divas quốc tế đang được xếp hạng trên các billboards âm nhạc, những DVD phim ảnh đang ăn khách như loại Avatar, Harry Potter, Chúa Tể Các Chiếc Nhẫn, Batman, Người Nhện,… những logos điển hình của McDonald, Loteria,[18] Kentuckey[19] của Microsoft, của Coca Cola,…,trò chơi điện tử của Mỹ, Nhật, điện thoại di động đủ thứ hiệu, Ipod, Ipad, nhạc Hip Hop, Rap, Rock,..., quần áo monosex ..., lễ hội hành tinh bóng đá,...
(ii) Chúng diễn tả ảnh hưởng của các tổ hợp xuyên quốc gia một cách vô hình làm yếu đi những biên giới ngăn cách mà đường hướng chính trị đã dựng nên.
(iii) Mà còn hơn nữa, TCH không chỉ dừng ở biên giới kinh tế giữa hai nước, nhưng đích thực nó là khái niệm diễn tả những viễn tượng (còn có thể tranh cãi) về một căn tính toàn cầu, liên quan đến bất kỳ tiến trình nào trong đó những con người khác biệt nhau, cùng có những thuộc tính văn hóa duy nhất như ngôn ngữ, hay một cung cách nhìn thế giới, một lối sống thì đang dần đồng hóa vào một nhân loại rộng lớn hơn.
(iv) Thật vậy, TCH sẽ làm “tăng lên nhiều lần các mối quan hệ giữa các công dân trên thế giới và cũng như các vận hội cho từng người.” Một sự đa dạng cho các cá nhân do họ được tiếp xúc với các nền văn hoá và văn minh khác nhau. Và một cách nào đó, TCH giúp con người hiểu hơn về thế giới và những thách thức ở quy mô toàn cầu qua sự bùng nổ các nguồn thông tin, việc phổ thông hoá hoạt động du lịch, việc tiếp cận dễ dàng hơn với giáo dục và văn hoá,[20] và với cơ may tránh hành sử thô bạo.[21]
Tuy nhiên, tại các nước tham gia được vào tiến trình TCH qua việc gia nhập vào WTO, ảnh hưởng của mô hình nhà nước-quốc gia giảm dần và không phải luôn luôn kiểu nhà nước này còn đủ tầm xử lý nhiều thách thức mang tính toàn cầu ngày nay.[22]
(iv) Từ đó nảy sinh thách thức cần thiết lập một toàn cầu hoá dân chủ thể chế nào đó. Kiểu toàn cầu hoá này dựa trên khái niệm "công dân thế giới," nhắc chúng ta đến câu nới thời danh của triết gia HyLạp Diogenes cách đây hơn 2500 năm: “Tôi không là công dân của Athens, hay HyLạp, nhưng là công dân của thế giới.” Nói cách khác, đó là một lối sống, kêu gọi “mọi người sống trên hành tinh này tham gia vào quá trình quyết định những việc liên quan đến họ, mà không cần thông qua một bức màn ‘quốc tế.’ ”[23]
Quan Hệ Hàm Hồ Giữa Người Trẻ và Xu Hướng TCH
1. Một Nỗ Lực Đi Vào WTO Của Đất Nước
1) Như các quốc gia khác tại Châu Á, đất nước Việt Nam là một bức mosaic tự thân chất chứa trong lòng nó một tính toàn cầu: bức này được ghép sống động bằng nhiều màu sắc tôn giáo (Đạo Ông Bà, Lão, Khổng, Phật, Cao Đài, Hoà Hão, Kitô …), văn hóa (của nhiều dân tộc: Việt, thiểu số, …), triết học (Âm Dương, Tam Tài, Ngũ Hành, Đông, Tây), chủng tộc và sắc dân khác nhau. Nơi đất nước này người ta có thể thấy những tương phản kỳ lạ cùng sống chung: giữa vô thần và hữu thần; giữa khoa học và mê tín; giữa duy lý và duy thực, duy vật và duy tâm; giữa ngu dốt và học thức; giữa người già và người trẻ, và nhất là giữa nghèo đói và giàu sang.
2) Tuy thế, đó là một dân tộc càng ngày càng ý thức hơn về căn tính của mình và không ngại hòa nhập vào cộng đồng thế giới, mà một thời gian dài do chiến tranh, họ phải sống ít nhiều tách biệt. Thật vậy, từ năm 1986, khi sự quyết tâm đổi mới trở thành chính sách, Việtnam đã tập học bài học mở cửa để sau gần hai thập niên, hơn bao giờ hết, họ cho rằng sự đổi mới nhanh chóng chỉ có thể xảy ra với phép mầu gia nhập vào tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO). Ngày 11/1/2007 Việt Nam đã chính thức trở thành đối tác ngang hàng với 150 thành viên hiện giờ của WTO.[24] Với quyết tâm muốn đạt tỉ lệ tăng trưởng kinh tế ~7% toàn quốc để có tiền đề đi vào thế giới toàn cầu, đất nước thật sự đang trong cơn sốt sản xuất và luôn tìm nguồi đầu tư (FDI).
3) Người Kitô hữu cũng không thể tránh khỏi xu hướng TCH này. Hiển nhiên, ta có thể tiếp cận toàn cầu hóa với những mặt trái của nó và sẽ không còn hiểu ra vần đề, vì mau chóng ta chỉ nhận thấy những phiếm diện của tiến trình này. Một vị Giám Mục của FABC so sánh TCH như là một luồng gió mát lạnh đem lại điều tốt lành mà chúng ta phải mở to cửa để đón nó, cho dù phải chấp nhận ngọn gió sẽ đưa đến ít con muỗi gây khó chịu cho chúng ta.
2. Trong Một Thế Giới Toàn Cầu Và Bất Bình Đẳng
1) Người trẻ ngày nay sinh ra và lớn lên trong bầu khí của thế giới TCH với sự bất bình đẳng đi kèm theo dưới mọi dạng, do thế giới này càng lúc càng chuyên biệt.
2) Mâu thuẫn tự thân! Tiến trình phát triển, nơi mà người trẻ tham gia vào thì vừa có khuynh hướng đem con người lại gần nhau vừa tạo hố sâu chia rẽ:
(i) Thử xem thống kê của LHQ: tài sản của 200 người giàu nhất thế giới thì còn lớn hơn tất cả thu nhập cộng lại của 2 tỉ người nghèo nhất trên trái đất.[25] Ta biết hố sâu giữa hai nhóm người này thì càng lúc càng tăng, mặc dù Ngân Hàng Thế Giới cho thấy rằng trong mười năm, giữa 1990-1999, số người nghèo giảm đi 125 triệu.[26]
(ii) Nhiều nhà phê bình lý luận rằng TCH trước tiên là tiến trình kinh tế:[27] “TCH, một cách thô đại được định nghĩa như là hội nhập toàn cầu của các nền kinh tế và các xã hội,” nhưng đó là tiến trình có ảnh hưởng xã hội sâu đậm nhất lên nhiều mặt cuộc sống người trẻ.
(iii) Hiển nhiên, có mối liên hệ giữa việc giảm thiểu sự nghèo đói và lương tăng và các công việc được phân bố hợp lý hơn tại một số nước tiêu biểu trong các nước đang phát triển.[28] Đồng thời sự dự phòng sức khỏe và giáo dục đã được cải thiện đáng kể trong các đất nước đang phát triển và được tham gia vào TCH; ví dụ như tại Brazil, Aicập và Malaysia, tỉ lệ tử của trẻ em sơ sinh giảm đi 30% trong thập niên 1990. Nhưng trong các nước chậm phát triển, với số dân tổng cộng là 2 tỉ người, sự tăng trưởng kinh tế giảm cách chung và sự nghèo đói đã gia tăng đạt đến mức báo động trong bối cảnh rộng lớn của TCH. Thống kê thế giới cho thấy sự kiện TCH là con dao hai lưỡi.[29]
Ta tự hỏi, qua các con số thống kê, kinh nghiệm về thế giới TCH biểu lộ điều gì? Và tiến trình này trực tiếp đụng đến người trẻ ra sao?
2) Tương quan giữa tuổi trẻ và TCH thì vốn là hàm hồ; thật vậy nguyên hạn từ Toàn Cầu Hóa và tất cả những gì mà nó diễn đạt, có lẽ tổng kết hết cái bất định mà người trẻ phải trực diện ở vào đầu tk XXI. Nhiều nhà xã hội học chuyên môn về vấn đề người trẻ đã cố vẽ lên người trẻ như một típ người đang ở tiền phương của các biến đổi xã hội và kinh tế.[30]
(i) Ở tiền phương cũng không có nghĩa là người trẻ có thể kiểm soát sự biến đổi này ở mọi môi trường sống của họ; hay ngược lại họ chịu hoàn toàn sự kiểm soát của các xu hướng nằm ở tiền phưong. Nhưng có điều chắc chắn, nói theo Christine Griffin, “giới trẻ được nhìn nhận như là một chìa khóa chỉ dẫn về tình trạng của chính đất nước của họ.”
(ii) Nhưng thật ra, cho dù người trẻ được nhìn như là hàn thử biểu của sự biến đổi xã hội như thế, độ đo này chỉ có khả năng bộc lộ rất sơ lược một ít bản chất của sự hòa nhập của người trẻ trong tiến trình tiến hóa của xã hội.
3. Những Ảnh Hưởng Của TCH Lên Người Trẻ
Những thái độ của người trẻ đối với sự thay đổi trong nền kinh tế toàn cầu hoá đáng để ta suy nghĩ. Những nghiên cứu trong các nước Đông Âu sau thời Liênsô là một tham khảo qúi giá. Wladimir Dubsky khi bình luận về cuộc khảo sát nơi giới trẻ Tiệp Khắc, vào giữa thập niên 1990, cho thấy, 90% ủng hộ đất nước chuyển qua nền kinh tế thị trường, chỉ có 20% cho thấy cần thay đổi nhanh, 71.8% cần thay đổi thận trọng để khỏi có các biến động xã hội. Việt Nam từ năm 1986 cũng tuyên bố chấp nhận nền kinh tế thị trường, nhưng những nền tảng lý luận triết học cho một nền kinh tế tự do trong một đất nước XHCN vẫn còn nhiều nghiên cứu mãi đến nay. Những bất định này hiển nhiên không những ảnh hưởng lên nền kinh tế quốc dân mà còn rõ nét lên người trẻ.
Trong nghĩa rộng như là ta đã xem, TCH qui chiếu đến một phổ rộng kinh tế, văn hóa và hoạt động chính trị vượt quá các khung cảnh thế giới. Một cách đơn giản, theo như Anthony Giddens gợi ý,
Toàn cầu hóa có thể được định nghĩa như là sự tăng cường các mối tương quan xã hội ở tầm thế giới, có thể nối kết những địa điểm xa cách theo một cung cách mà những gì xảy ra ở địa phương thì cũng bị định hình bởi các biến cố xảy ra cách đó nhiều cây số và ngược lại.[31]
4. Người Trẻ Trong Tiến Trình Khám Phá Căn Tính Của Bản Thân Trong Thế Giới TCH
1) Trong thế giới TCH thiết yếu là bất an,[32] người trẻ phải đi vào đó để bước vào tiến trình khám phá ra căn tính của mình. Sự bất ổn định ẩn tàng trong lòng thế giới chỉ có thể là làm nổi bật sự căng thẳng và thiếu sự kiểm soát mà người trẻ trải nghiệm trong đời sống thường nhật. Có những cám dỗ và nguy cơ. Hiểm nguy là vì TCH có thể đưa đến mọi hiệu quả cục bộ có thể không mong đợi như Z. Bauman nhận xét:
Hiện hữu cục bộ trong thế giới TCH đó là một dấu chỉ của sự bần cùng và suy thoái. Sự thiếu thoải mái trong cuộc sống cục bộ được hình thành bởi sự kiện là không gian công cộng đã bị tước đoạt khỏi tầm với của đời sống địa phương, các khu vực đang mất dần khả năng phát-sinh-ý-nghĩa và thương thảo-có-ý-nghĩa và lần hồi tùy thuộc vào những hành động tự-tạo-ý-nghĩa và giải-thích-ý-nghĩa mà họ không thể quản lý[33]
Hệ quả tất yếu mà ta thấy được đó là tình trạng bị gạt ra bên lề.
2) TCH được đặc thù rõ nét bởi sự kỳ thị không gian, trong đó sự khác biệt khách quan sẵn có thì càng gia tăng giữa thành phần tuyển chọn toàn cầu và đa số địa phương.[34] Thời thuộc địa sự khác biệt xảy ra giữa thành phần trung tâm (quyền lực thực dân) và ngoại vi (đám đông dân nghèo). Hiệu quả, đó là sự khác biệt kinh tế đưa đến sự phân chia giai cấp.
3) Theo Christine MCMurray và Roy Smith chỉ ra, ngày nay ranh giới địa dư không còn quan trọng để gây ra những tương quan trung tâm-ngoại vi. Cái dị biệt giữa các từng lớp ngày nay là ở trong khả năng tiếp cận đến tài nguyên, sự giàu có và những cơ hội, thì có thể gây ra những hậu quả lớn hơn nhiều trong bối cảnh toàn cầu so với mọi trường hợp khác trong quá khứ.[35]
5. Vô Danh Tính trong Xã Hội TCH
1) Phaolô VI trong thông điệp Bát Thập Niên (1971)[36] đã thấy sự đô thị hóa làm đảo lộn cách sống và những cơ cấu quen thuộc của cuộc sống: gia đình, xóm giềng, các khuôn khổ của chính cộng đồng Kitô hữu.
2) Con người cảm nghiệm một sự cô đơn mới, không phải trước một thiên nhiên thù địch mà họ đã dùng hằng bao thế kỷ để chế ngự, nhưng trong đám vô danh đang bao quanh họ và ở đó họ cảm thấy mình là người xa lạ...
3) Tuy thế, ngay vào thập niên 1960, nhà thần học H. Cox đã nói đến có một sự chuyển vị mô hình đi từ cái nhìn tiêu cực về tính vô danh của thành phố công nghệ đến cái nhìn tích cực hơn.
(i) Ông gọi con người thời nay, một con người đô thị hóa, là homo symbolicus vì họ là người của truyền thông với những bảng nút nhấn[37] và thành phố to lớn với mạng lưới thông tin dày đặc. Thật vậy, cả một thế giới với những khả năng thông tin nhanh chóng và cập nhật nằm trong tầm với của họ.
(ii) Con người đô thị có một sự chọn lựa tự do rộng lớn về phổ nhu cầu hiển hiện trong thành phố, đặc biệt với đô thị có đơn vị là triệu dân trở lên: Có nhiều chợ hay siêu thị, nhiều nhà hàng ăn, nhiều rạp hát hay chiếu bóng, nhiều khách sạn, nhiều chốn vui chơi giải trí... và nhiều trường học có tiếng...
(iii) Tính chất nhân văn như là một homo symbolicus rõ ràng được mở rộng. Nhưng tự do luôn đòi hỏi kỷ luật và sự tự chế. Một phổ nhu cầu hiển hiện với nhiều khả năng chọn lựa dạy cho con người này phải biết chọn lựa đúng, phù hợp và cần thiết. Giữa hàng loạt chương trình văn nghệ buổi tối hấp dẫn, cần có một sự chọn lựa ý thức một chương trình nào đó và quyết định từ chối các chương trình cũng hấp dẫn còn lại.
(iv) Tương tự trong lãnh vực quan hệ cá nhân, tính tuyển chọn của họ càng yêu cầu cao hơn đối với con người thôn dã. Họ chỉ có thể chọn một số ít bạn bè mà họ có thể duy trì và phát triển tình cảm, nhưng đồng thời phải duy trì nhiều quan hệ khách quan chỉ có tính công việc hay dịch vụ, i.e., ít nhiều phi cá nhân nhưng chính là để duy trì và nuôi dưỡng một số tình bạn nói trên một cách có chất lượng. Những ai chúng ta muốn duy trì quan hệ thân ái thì có số riêng điện thoại bàn hay di động hay địa chỉ Email của ta.
(v) Vì thế, trong nếp sống của mình, con người đô thị bị bắt buộc phải biết phân biệt rạch ròi giữa đời sống riêng tư của họ và những quan hệ công khai và hình thức chỉ có chiều kích chức năng, công việc[38].
(vi) Đời sống đô thị hiển nhiên vẫn đòi hỏi ta đối xử nhiều người như là con người với lòng kính nể và tôn trọng cần thiết trong xã giao chứ không phải là như đối với sự vật, nhưng đàng khác quan hệ này không đi đến sự thân mật.
Louis Wirth gọi đó là một quan hệ có hình thức “miễn nhiễm” để bảo trì năng lượng cá nhân chống lại những quan hệ không cần thiết[39] làm ta mệt mỏi thêm sau một ngày khá căng thẳng trong cơ quan với những tiếp xúc chính yếu là do công việc hành chánh sự nghiệp.
Sự miễn nhiễm này xuất phát từ một nếp sống thời công nghiệp của TCH thoạt tiên xuất hiện như là một sự lạnh lùng và có thể bị đánh giá nhẫn tâm đối với những người từ miền quê ra tỉnh.
Ở làng quê mọi người biết nhau, biết tên nhau, ngay với những người chúng ta giao dịch. Họ không là những vô danh. Trái lại ở thành phố ví dụ, tôi không mong gặp lại người sửa điện nước hàng ngày; không phải vì họ gây cho tôi khó chịu nhưng cụ thể sự gặp gỡ họ thường khá tốn kém, và vì thế họ là vô danh với tôi cũng như tôi là vô danh với họ và tôi cũng không cơ may gặp họ ở nơi khác. Những sự gặp gỡ như vậy chỉ mang tính chất một khía cạnh, và theo ngôn ngữ xã hội học, đó là một sự giới hạn vào những phân đoạn .
4) Trong thế giới đô thị, nhà cửa san sát nhau, hoặc cùng chung cư, nhưng không gian gần gũi không nói lên được là những người láng giềng có quan hệ thân mật với nhau.
Nhiều người chọn lối sống “khách quan” này để có thể có thời giờ và năng lượng hơn duy trì và nuôi dưỡng những quan hệ bạn bè mà họ đã chọn lựa, tuy rằng không phải là họ quên những trách nhiệm của con người đang sống cùng khu phố. Có điều họ không muôn duy trì sự thân mật.
Tất cả những nhận xét trên chỉ mang ý nghĩa là tính láng giềng ngày nay đã thay đổi dạng hình .
6. Đâu Là Một Sự Giải Phóng Cho Thế Giới Đô Thị Hóa
1) Harvey Cox đặt câu hỏi, làm sao tính vô danh đô thị phải được hiểu cách thần học? Ông dùng hình ảnh giữa Lề Luật và Tin Mừng để chú giải.
(i) Lề luật theo nghĩa, những gì ràng buộc chúng ta khách quan và miễn phê phán đối với những qui luật và ước lệ truyền thống.
(ii) Còn Tin Mừng đó là một nếp sống giải phóng chúng ta cho phép quyết định cho chính bản thân mình.
(iii) Nói cách khác, Lề Luật chính là sức mạnh của “phương hướng khác tha hóa” của một nền văn hóa sẵn có, yêu cầu minh nhiên hay mặc nhiên chúng ta tuân thủ mù quáng vào cái ước lệ vô danh biểu lộ trong vô vàn cách trong cuộc sống có khi là ẩn tàng, quyết định thay cho chúng ta, và như thế tước mất cái tính trách nhiệm làm người của chúng ta.
(iv) Trong khi đó, Tin Mừng chính là tiếng gọi của Đấng ngay từ nguyên thủy đã đến với con người, và xác định con người như một bản ngã có quyền tự do trong quyết định và ý thức rằng, lịch sử quá khứ và môi trường xung quanh không thể xác định điều gì họ phải làm.
Tông huấn Loan Báo Tin Mừng của Phaolô VI nói một cách cụ thể và rõ rệt:
Như nòng cốt và trung tâm của Tin Mừng, Đức Kitô loan báo ơn cứu độ, tức hồng ân lớn lao này của Thiên Chúa là giải thoát tất cả gì áp bức con người, nhất là giải thoát khỏi tội lỗi và ác thần, trong niềm vui nhận biết Thiên Chúa và được Ngài biết tới.[40]
(v) Trong ngôn ngữ truyền thống, sứ điệp nói lên rằng Thiên Chúa đã giải phóng con người nhờ Đức Yêsu, khỏi những “quyền lực thần thiêng” kềm hãm họ, những thần giả (Rom 1, 25) để có thể trở thành “người thừa tự” i.e., làm chủ thế giới tạo thành.
(vi) Trong ngôn ngữ của con người đương đại “những quyền lực thần thiêng” đó là những sức mạnh tiêu cực ẩn tàng trong nền toàn cầu hóa kinh tế và văn hóa đang làm tê liệt và bại hoại sự tự do con người .
(vii) Ta có thể tổng kết các trường lực này mang các dạng tha hóa như trên, bao lâu chúng xuất hiện như những lực ngăn cản hay triệt tiêu con người dám sử dụng cách tự do và đầy đủ trách nhiệm của bản thân trước hạn từ quen thuộc trong mọi nền văn minh: “định mạng.” Chính trong tất cả sự tế nhị trong sự phân định này mà những nhà giáo dục người trẻ ngày nay gặp phải.
Những chỉ thị “không nên làm” thì dễ ban ra, nhưng dạy người trẻ biết sử dụng sự tự do của họ cách trưởng thành và có trách nhiệm trước những vô vàn nhu cầu mời mọc của thế giới đô thị hóa mới là khó.[41]
Điều cơ bản cần phải hiểu là đối với người Kitô hữu ngay từ bây giờ, thật sự chúng là những lực mù quáng không có khả năng định mạng hóa con người.
Trái lại, con người có khả năng và trách nhiệm quản lý chúng và sử dụng chúng có trách nhiệm trước Thiên Chúa.
2) Nói cách khác, về phía bờ con người, bởi vì con người được ban cho tự do, con người là chủ thể của sự vật theo nghĩa, họ có thể sử dụng tốt hay xấu sự vật.
Phaolô đã cho chúng ta thấy nơi Roma (1, 25), con người không luôn hành sử như vậy, con người đã sa ngã. Thay vì dùng sự tự do để tri ân Thiên Chúa vì tạo dựng được ban cho mình để sử dụng cách khôn ngoan và có trách nhiệm, con người “đã tôn thờ những loài thọ tạo.” Và hậu quả là con người đã trở nên nô lệ của sức manỉh mù quáng.
Chính sự nô lệ minh nhiên hay mặc nhiên ngày nay mà Giáo Hội của tx XXI này luôn cảnh báo người Kitô hữu và chứng tá rằng ngay ngày nay, hành động của Thiên Chúa luôn như là biểu lộ sự trung tín của Ngài, vẫn tiếp tục hiện thực những gì Ngài đã hứa, nay được biểu lộ nơi Đức Yêsu thành Nazareth, luôn kêu mời con người tự do khỏi mọi uy lực thiêng liêng tha hóa và đồng thời thúc bách họ hành sử có trách nhiệm và khôn ngoan trên những uy lực này.
7. Người Trẻ Kitô Là Người Thừa Kế Vì Là Con Nên Là Tự Do
Nếu Giáo Hội theo Vatican II nhìn nhận, được đặt trong môi trường của thế giới như là người thừa kế, một cách nói nghiêm túc, Giáo Hội, và hiển nhiên mọi Kitô hữu, đặc biệt người trẻ, vì là tương lai của GH, không thể và không nên có những nghi ngờ và thắc mắc chủ bại về di sản mình nhận được từ Thiên Chúa và Đức Yêsu Kitô.
1) Người trẻ không phải là người làm thuê. Họ bị thách đố phải sống như là “chủ” của thế giới này trong ý nghĩa thần học nhất và thiết thực nhất.
(i) Tin vào kerygma của Thiên Chúa qua Đức Yêsu, đã chết và phục sinh, là tin vô điều kiện vào Thiên Chúa để xác tín rằng không phải con người cần nhưng là phải là người quản lý trái đất này .
(ii) Đối với Kinh Thánh, không có quyền lực nào trên thế gian này mà không thể không thuần phục được và tột cùng là không nhân bản hóa được.[42] Chối bỏ nó, trong ngôn từ hay trong hành động, theo H. Cox, đó là quay trở lại lời cảnh cáo của thánh Phaolô “tôn thờ những loài thọ tạo, thay vì chính Đấng Tạo Hóa,” là mở tung cánh cửa để lại đón tiếp vào nhà mình những ác thần và bái phục trước những thần định mạng mù quáng.
2) Trong dòng lịch sử cứu độ luôn có những gương “chủ bại” đó làm Thiên Chúa nổi giận. Đoạn sách Dân Số 13, 1-3; 17-33; 14, 1-34, mà nữ thần học về đời tu Catherine Harmer dùng làm bối cảnh để viết tuyệt tác “Đời Tu Trong Thế Kỷ XXI: Hành Trình về Canaan Hôm Nay” cũng luôn là đoạn văn gây ấn tượng. Dân Israel đóng tại Cadès, trong sa mạc Paran, đường chim bay cách Yêrusalem khoảng 150 Km. Chúa nói với Môsê cho các tù trưởng (kỳ mục) của từng bộ lạc đi thám thính miền đất hứa. Các ông đi và đến thung lũng của Hebron và sau 40 ngày và nhìn nhận miền đất hứa đúng là miền đất tràn trề sữa và mật, chỉ có điều dân tộc thì cao lớn và hùng mạnh. Và toàn dân hãi sợ muốn đặt lên một người thủ lãnh mới thay thế Môsê để dẫn dắt họ trở về Aicập. Chỉ có Yôsua và Caleb chống lại quyết định trên và tin tưởng vào Thiên Chúa, vì Ngài ở với dân. Cả cộng đồng đang bàn tính ném đá các ông. Kinh Thánh nói Thiên Chúa muốn tiêu diệt toàn dân. Nhờ Môsê và Aaron kêu xin nên Chúa tha, nhưng toàn dân từ 20 tuổi trở lên không được vào Đất Hứa trừ Yôsua và Caleb. Và Chúa để cho dân Israel lang thang trong sa mạc 40 năm.
3) Lịch sử cứu độ vẫn đang tiếp diễn.
(i) Thiên Chúa ở Cadès ngày nào vẫn là vị Thiên Chúa đang đồng hành với dân Chúa ngày nay.
(ii) Có điều chúng ta có biết kết hợp một bên sự tự do của mình và bên kia, tính trách nhiệm để can đảm dám xốc tới trước cho dù có thể vẫn còn sợ hãi hay không?
3) Phaolô dùng một biểu tượng rất hay ở thư gởi tín hữu Galat (Chương 4). Ông nói bao lâu người thừa kế còn là thiếu niên thì nó không khác người nô lệ, mặc dù là chủ mọi tài sản, vì nó còn ở dưới quyền của người giám hộ. Nhưng đến khi trưởng thành, nó thật sự trở thành là con thừa kế.
(i) Phaolô đã áp dụng hình tượng này cho người Kitô hữu và nhấn mạnh khi thời gian đến (Kairos), chính nhờ Đức Yêsu con Thiên Chúa được sai đến mà chúng ta trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa (Gal 4, 4). Như vậy Thiên Chúa là Cha. Ngài là chủ tể mọi loài vì là Đấng Tạo Hóa. Nên con người chỉ có thể là con đích thực khi thi hành uy quyền làm chủ trên vạn vật.
(ii) Đàng khác, khi chấp nhận sống trong hoàn cảnh tự nhiên mà Đấng Quan Phòng đặt để cho họ, người trẻ Kitô hữu không như những biệt phái giả hình, than vãn hoàn cảnh họ đang sống trong thế giới toàn cầu hóa, của nền kinh tế thị trường với tất cả cái thuận tiện và bất lợi của nó.
(iii) Vì như là con của người tự do, họ được mời gọi họ lăn xả vào lòng thế giới đầy những thách đố và mạo hiểm từ các vị trí của bản thân họ đang ở.
(iv) Đó là những thách đố vì họ không dễ dàng phân định vào ngày hôm nay, đâu là những những ma thuật trong thế giới thiên nhiên với những biến đổi diệu kỳ nhờ khoa học kỹ nghệ, những dạng thần thánh hóa chính trị vì bị cuốn hút bởi những gương mặt của những người đang nắm quyền điều động đất nước với những lời hứa vào một tương lai không kiểm chứng được, và cuối cùng là sự hiến thánh dễ dàng các giá trị hàm hồ đang đuợc ca tụng trong thế giới TCH.
8. Quan Hệ I-Thou Theo Buber Có Thể Giúp Người Trẻ Có Một Chiều Sâu Nhân Bản Trong Thế Giới TCH
1) Quan Hệ I-Thou Như Là Tương Quan Nền Tảng Của Mọi Tương Quan
(i) Trong tác phẩm vĩ đại qua mọi thời “I and Thou” (1923), Martin Buber (1887-1965) cho thấy viễn tượng to lớn của cuộc sống: Hiện sinh thiết yếu là tương quan. Là một thực thể xã hội, chúng ta gắn liền thiết yếu với thiên nhiên, tha nhân, nền văn hóa nhân loại và cơ bản với Thiên Chúa.
(ii) Quan hệ I-Thou quan trọng đến mức ông mượn lời sách Khởi Nguyên để nói: ”Lúc khởi đầu đã có tương quan” và chủ đề quen thuộc thường xuyên của ông: “Mọi hữu thể sống động là gặp gỡ.”
(iii) Trung tâm tư tưởng của Buber đó là sự phân biệt giữa quan hệ I-Thou và I-It.
2) Tương quan I-It là tương quan khách quan không mang tính nhân bản.
(i) Tha nhân là một đối tượng bị thao túng (thao tác) hơn là một chủ thể đáng trân trọng.
(ii) Tương quan I-It mang chất tính toán, chương trình hóa hơn là bộc trực và tự do.
3) Còn I-Thou là tương quan
hoà nhập gắn bó,
hiện diện hết tình
và dấn thân vô điều kiện.
(i) Trong tương quan này, chúng ta đi ra khỏi bản thân, học cách quên đi nhu cầu riêng cá nhân, mối bận tâm cá nhân và dự án riêng.
(ii) Tha nhân được trân trọng gìn giữ như là một quà tặng và được tôn trọng như là chủ thể duy nhất và chính nhờ đó ta vượt qua cám dỗ sử dụng, qui phạm hóa và kiểm tra tha nhân.
(iii) Tương quan đích thực với tha nhân phải là trực tiếp, cởi mở và nhiệt tình.
(iv) Nó phát sinh một cảm thức bộc trực của một sự hiện diện trực tiếp.
(v) Tương quan hỗ tương này thúc đẩy cả hai bên phát huy tối đa những khả năng tiềm ẩn trong tiến trình này để đi đến một sự ý thức sâu thẳm hơn về căn tính của họ, một căn tính luôn thách đố sự hiểu biết khách quan cũng như sự diễn tả chính xác.
(vi) Theo Buber, quan hệ I-Thou không là một ngõ cụt. Trong tương quan đích thực, đời sống Thần Linh được giải phóng. Chính trong sự gặp gỡ cụ thể với tha nhân mà chúng ta gặp Thiên Chúa... Trong ngôn ngữ của Buber: ”Mỗi cái Thou đó là một ánh mắt đi đến Thou vĩnh cửu.”
3) Quan Hệ I-Thou Giúp Giải Phóng Đích Thật Vô Danh Tính Trong Thế Giới Đô Thị Hóa
(i) Như ta đã nói ở trên, sự đô thị hóa, vì cung cấp cho ta nhiều khả năng chọn lựa giữa những giá trị mà thế giới tiền đô thị không thể đem lại được, một cách nào đó đã giúp cho sự giải phóng con người.
(ii) Nhưng để sống khỏi những ước lệ bị bắt buộc (rất nhiều) trong thế giới này, con người cần học biết chọn lựa cái gì cần giữ lại. Đây chính là điều mà ta đã nói, là người trong nền văn minh đô thị hóa, sự vô danh tính đối với đa số con người trong thành phố giúp ta có một “bộ mặt thật là nhân bản và một tên gọi” đối với tha nhân .
(iii) Hiển nhiên, đó là một sự thách đố không dễ dàng vượt qua. Chúng ta không mơ ngủ để lý tưởng hóa đời sống đô thị hóa, nhưng trong thành phố tục hóa này, chúng ta có thể có nhiều sự gặp gỡ hơn, nối kết nhiều mối liên hệ hơn, tham dự nhiều cuộc trao đổi hơn, có nhiều sự truyền thông hơn và thường là sâu đậm hơn, mặc dù có khi không có cơ may nói chuyện với người hàng xóm, nhưng với những người mà chúng ta tự do chọn lựa vì ta cùng chia sẻ với họ những phân đoạn đời sống quan trọng trong sinh hoạt: Đời sống công ăn việc làm, đời sống đức tin, sứ vụ, đời sống ngơi nghỉ, thể thao...
(iii) Sống có trách nhiệm trong những tương quan được phân đoạn, khoanh vùng thật là một sự đòi hỏi lớn, đặc biệt đối với những ai đến từ vùng sâu vùng xa, được giáo dục trong truyền thống gia đình láng giềng làng xóm. Có thể đối với một số người có gốc gác như thế và đang sống trong đô thị có cảm thức mặc cảm tội lỗi vì không thể vun trồng tương quan “I-Thou” tuyệt hảo trong hiện tại, một tương quan “vững bền, nhỏ hẹp và ít nhiều nổi bật tình gia đình” mà trước đây họ được giáo dục. Điều này thêm trầm trọng nếu một vị chủ chăn hay một vị lãnh đạo đang sống trong thế giới đô thị hóa với hàng triệu dân, lại đem phong cách và não trạng chủ chăn hay phụ trách của một thị trấn hay làng quê để nói về tương quan I-Thou giữa người và người. Mô hình xã hội đã làm một chuyển vị sâu xa từ làng quê ít dân cư đến đô thị hàng triệu dân.
4) Theo Harvey Cox, trong thế giới đô thị hóa, ngoài tương quan I-Thou và I-It, có thể có một tương quan vùng đệm, I-You. Như ta đã nói ở trên, không nhất thiết là nếu trong quan hệ người-người không mang phẩm chất I-Thou thì tức khắc rơi vào tương quan I-It. Vấn đề này nhà nữ xã hội học Jane Jacobs, ngay trong tác phẩm thời danh vào thập niên 1960, “Suy Tàn và Tồn Tại của các Thành Phố Lớn Hoa Kỳ” đã có một mô tả thật cụ thể:
Không ai lại đi mở toang cửa trong thành phố lớn. Không ai muốn như thế. Nhưng nếu những giao tiếp hấp dẫn, có ích và có ý nghĩa giữa công dân của các thành phố chỉ gói gọn vào những mối quen biết chỉ phù hợp với cuộc sống riêng tư, cả thành phố sẽ biến thành buồn tẻ chán ngán. Các thành phố thì đầy dẫy con người mà theo cái nhìn của bạn hay của tôi, hay của bất kỳ cá nhân nào, cho rằng với một mức độ gặp gỡ nhau nào đó là vừa đủ và thích thú rồi và xong rồi bạn không muốn họ quấy rầy bạn. Cũng như chính họ không muốn bạn quấy rầy họ.[43]
5) Các nhà thần học ngày nay, tựa như H. Cox gợi ý, cần phát triển một lối lượng giá nếp đặc thù “sống chung” kiểu I-You trong thành phố lớn theo kiểu của J. Jacobs: Một dạng đích thực của cuộc sống đoàn thể con người mang dáng dấp tính khách quan, ước lệ hay chỉ gặp nhau qua các công việc với mức tối thiểu lễ phép xã giao, nói cách khác, một quan hệ hỗ tương còn chất chứa tính vô danh, như ta đã nói trên.[44]
6) Có một khía cạnh tích cực khác mà sự phát triển của một nền thần học về vô danh tính trong đô thị ngày nay có thể đóng góp, đó là nó giúp cho chúng ta thấy, ngay trong tương quan vô danh đô thị vẫn còn ẩn tàng một mối hiểm nguy đích thực, đó là vì chính nó cũng dễ dàng sa vào cái ước lệ khô cằn mới.
(i) Sự mong muốn bảo vệ sự tự do cá nhân tránh sự quấy rầy cũng có thể biện minh cho những hành sử mà lịch sử đã chứng minh, con người có thể nhân danh nó để nô lệ hóa hay tiêu diệt dân tộc khác: Phòng hơi ngạt thời Đức Quốc Xã ở Auschwitz, trại tập trung những người chống đối ở Gulag Archipelago, phòng thí nghịêm hóa học trên con người của bộ máy chiến tranh Thế Chiến II của quân phiệt Nhật, hai trái bom thả xuống Hiroshima và Nagazaki, những hành động khủng bố không phân biệt dân lành trong một số đất nước ngày nay...
(ii) Còn rất nhiều nữa. Ngay Tin Mừng cũng có thể bị sơ hóa và thành một ước lệ loài người và bị thao tác cho một mục tiêu hủy diệt và đàn áp. Những dạng chiến tranh tôn giáo (ví dụ: thời Thập Tự Chinh hay những cuộc Thánh Chiến ngày xưa và nay của các phong trào Hồi giáo cực đoan) vẫn còn đó để cảnh báo chúng ta, những người Kitô hữu mang danh Kitô, hay những người “sequela Christi.”
Tóm lại, đối với nhiều người, cuộc sống đô thị hóa ngày nay với những đòi buộc và thúc bách cũng có thể là một sự giải phóng vinh quang, một sự giải thoát khỏi những truyền thống chồng chất nặng nề và những trông chờ gây chán ngán của đời sống thị trấn và một sự bước vào những khả năng chọn lựa mới hấp dẫn đang lan tỏa các siêu thành phố tục hóa .
III Chúa Nhật XVIII, B, QN:
Dấu Chỉ Giona-“Dấu Chỉ của Mọi Dấu Chỉ: Bánh Trường Sinh.
Ai đến với Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa Cha, không hề phải đói; Ai Tin vào Ngài, chẳng bao giờ khát.”
Ba Bài Đọc của Ngày Chúa Nhật.
Bài Giảng IV: “Bánh Được Bẻ Ra và Phân Phát, Chén Giao Ước Trong Máu Ta”: Dấu Chỉ vượt thời gian và không gian: “Lòng Trung Nghĩa của Thiên Chúa đối với con người và con người đối với Ngài và toả xuống Anh Chị Em đồng loại.”
1. Bánh Được Bẻ Ra và Phân Phát: Dấu Chỉ Vượt Không Gian và Thời Gian
Đọc lại phép lạ hóa bánh ra nhiều, dưới ánh sáng của bài diễn từ cao cả của Đức Giêsu về bánh sự sống, (Cf. Gioan 6, 22-63), thì ta hiểu:
1) Dấu lạ hóa bánh ra nhiều từ bánh được bẻ ra và phân phát mà Đức Giêsu đã làm (Gioan 6, 5-15)[45] đưa chúng ta trở lại dấu lạ Manna trong hoang địa. Dấu lạ này chỉ là hình bóng cần phải vượt qua:
Thật vậy, nếu phép rửa khai sinh thân thể huyền nhiệm, thì phép thánh thể nuôi dưỡng và làm nó lớn lên. Thánh Phaolô trình bày cùng một lúc kiểu mẫu trong Cựu Ước của hai bí tích này. Ngài nói: "Những người Do thái chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Môisen. Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Ðức Kitô” (1 Cor 10, 2-4).
Manna và nước chảy từ tảng đá được gọi là linh thiêng vì chúng là kết quả của một dấu lạ và vì chúng là dấu chỉ của hai yếu tố của phép thánh thể, thức ăn và thức uống của người được tái sinh nhờ phép rửa.[46]:
(i) Người Do Thái thời Đức Giêsu không hiểu ra ý nghĩa dấu chỉ phép lạ hóa bánh, họ chỉ dừng ở chỗ “đã được ăn bánh no nê,” một thứ “lương thực mau hư nát.” Họ đi tìm Đức Giêsu tại Capharnaum, không phải vì họ đã “thấy dấu lạ” [Gioan (6, 26)] mặc dù Đức Giêsu cố gắng nâng tâm hồn họ lên và khuyến khích họ phải ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực chính Ngài sẽ ban cho họ. Ngài đáng tin cậy vì được Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận (Gioan 6, 27).
(ii) Đàng khác, vì thiếu đức tin[47] họ lại đòi Đức Giêsu một “dấu lạ để tin Ngài” (6, 30)[48], dấu lạ kiểu Môsê làm với bánh Manna (Gioan 6, 31). Nhưng ngay dấu lạ Manna trong sa mạc người Do Thái cũng không hiểu. Đức Giêsu phải tái xác nhận với dân chúng rằng, không phải ông Môsê đã cho đám đông dân ăn bánh bởi trời (c. 31) mà chính là Cha Ngài cho họ ăn bánh bởi trời, bánh đích thực (c. 32) vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian (c. 33).
2) Như vậy, nếu dưới ánh sáng của bài diễn từ về Bánh Trường Sinh thì ta được mời gọi
(i) vượt khỏi hình bóng (= dấu chỉ) của bánh mau hư nát để đi đến lương thực đích thật của con người là Ngôi Lời, Lời vĩnh cửu từ Cung Lòng Cha, đã đến trần gian vì yêu thương.
(ii) Dấu lạ này đưa chúng ta đến một thế giới mới trong đó, Ngôi Lời, Lời Chúa vĩnh cửu, sẽ là bánh của chúng ta, lương thực của tiệc cưới vĩnh cửu: vì "chính Ngài là bánh trường sinh. Ai đến với Ngài, không hề phải đói; ai tin vào Ngài, chẳng khát bao giờ!” (c. 35).
2. Vượt Qua các Dấu Chỉ: Từ Hành Động Bẻ Bánh đến Sự Hiện Diện của Phép Thánh Thể giữa Lòng CĐ Kitô Hữu Sơ Khai
1) Chúng ta biết Cộng Đồng Kitô hữu sơ khởi, cơ bản là từ các tông đồ và môn đệ ngưòi Do Thái. Sự tụ họp của họ là ở Hội Đường Do Thái, để cầu nguyện cộng đồng (thánh vịnh), lắng nghe Lời và chia sẻ.
(i) Từ khi Đức Giêsu cử hành bữa Tiệc Ly vào Chiều Thứ Năm Thánh, Cộng Đồng Kitô hữu sống hiệp thông, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ cầu nguyện và nghe các Tông Đồ giảng dạy, và làm “lễ bẻ bánh”[49] tại tư gia (Cv 2, 42.46).
(ii) Ngay vào thập niên 30, ý tưởng rằng anh chị em Kitô hữu tiên khởi đã quyết định cử hành nghi lễ Thánh Thể trong Cộng Đồng khi Đức Giêsu không còn hiện diện hữu hình với họ quả là một hành động mà nhìn ngay dưới khía cạnh lịch sử, thì thật sự là khó hiểu.[50] Ai dám nghĩ ra hành động này, khi ta biết tại Đền Thờ, những buổi cầu nguyện và chia sẻ lời Chúa là từ các lãnh đạo Do Thái?
2) Chúng ta chỉ có thể cho rằng một hành động được trường tồn như thế ở mọi nơi có người Kitô hữu tụ họp, thì chỉ có thể xuất phát từ Đức Giêsu, từ sáng kiến của Ngài “Hãy làm việc này để tưởng niệm đến Thày.”
(i) Thật vậy, nó là hành động xuất phát từ người “có uy quyền” như dân Do Thái thường gọi Đức Giêsu như thế, Đấng hành xử vượt quá Môsê và các Tiên Tri; “Các ngươi nghe nói Môsê nói,.. hay người xưa nói, còn Ta nói.”
(ii) Đức Giêsu hành sử như người có khả năng đan kết Lề Luật và các Tiên Tri, nghĩa là một đàng, rất trung thành với Thánh Kinh, nhưng đồng thời cũng hành sử uy quyền như Người Con của Thiên Chúa vượt quá chúng. Phải, chỉ có Ngài đã nói và hành động như thế mà các Tông Đồ, rồi các môn đệ, rồi cả Giáo Hội, đã cử hành nghi lễ “bẻ bánh” như Đức Giêsu đã làm hôm trước ngày Ngài chịu nạn.
3. Đức Giêsu như là Chủ Thể của Thánh Thể, “Lời Ngợi Khen” và “Tri Ân” của Dòng Tộc Nhân Loại Trước Thiên Chúa Cha
1) Truyền thống lớn lao của Người Do Thái, luôn trên cửa miệng, chúc tụng và tri ân những kỳ công Thiên Chúa đã và tiếp tục làm cho dân: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn trung nghĩa”[51] (hesed, Tv 118,1).
Trong dấu lạ hóa bánh ra nhiều, như người con ngoan Do Thái, Đức Giêsu đã cử hành như thế: “Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát…” (Gioan 6, 11).
2) Mỗi khi người Kitô hữu tụ họp lại để làm phép bẻ bánh,[52] chính Đức Kitô đứng đầu cộng đoàn, vì Ngài là nhân vật hoạt động chính của bí tích Thánh Thể, là Thượng Tế của Giao Ước Mới, là chủ thể cách vô hình mọi cử hành Thánh Thể.[53]
3) Đại diện dòng tộc nhân loại, trong bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu chúc tụng và tạ ơn Chúa Cha với chúng ta và cho chúng ta. Thật vậy, khi trở lại bốn truyền thống của Tân Ước tường thuật Chúa thiết lập Thánh Thể:
Chứng nhân quan trọng bậc nhất trong Tân Ước về phép Thánh Thể, đó là bộ song đối truyền thống các tác giả ghi nhận lời truyền của Đức Giêsu trên bánh và rượu. Trên Bánh, thì có hai truyền thống: Chúc Tụng và Tri Ân.
Lời Chúc Tụng (Eulogia) trên bánh: (Mt 26, 26-28/Mc 14, 22-24)
Mt 26, 26-28: Cũng trong bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng,[54] rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy."
Mc 14, 22-24: (gần như Matthêu: Cũng đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy.")
Lời Tri Ân (Eucharistia) trên bánh (Lc 22, 19-20/1Cor 11, 23-26)
Lc 22, 19-20: Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy."
1Cor 11, 23-26: Trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn,[55] rồi bẻ ra và nói: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy."
Matthêu và Marcô đều nhắc đến hành động tri ân của Đức Giêsu trên chén rượu:
Mt 26, 27-28: Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: "Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội.
[Mc 14, 23-24: Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: "Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người].
Tương tự đối với Luca và Phaolô:
Lc (22, 20): “Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy (i.e., dâng lời tạ ơn) và nói: ‘Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.’”
1 Cor (11, 25): “Cũng thế, (i.e., dâng lời tạ ơn) cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: ‘Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.’ "
4) Ngay từ đầu, truyền thống Giáo Hội đã hiểu ra lệnh truyền của Thầy Giêsu của mình, và đã làm theo lệnh của Ngài, khi đọc lời truyền trên bánh và rượu. Nó không phải là công thức ma thuật.
(i) Thật vậy, thánh lễ trước tiên là hành động Tri Ơn và Ngợi Khen của vị Thượng Tế Mới, Đức Giêsu Kitô, chủ tể của Phụng Vụ, dâng lên Thiên Chúa Cha.
(ii) Ngài đã được chúc tụng bằng Lời Ngợi Khen, Con Một Ngài, đã thành xác thể, đã được nâng lên (tôn vinh) trên thánh giá, qua sự phục sinh và lên trời, và đã hứa kéo mọi người đến cùng Ngài.
(iii) Sự tôn vinh cũng là hành động thờ lạy mới của vị Thượng Tế ngang qua các tầng trời, dâng lên Cha của Ngài, chủ tể của vũ trụ.
Nói cách khác, cả vũ trụ này từ nay, chỉ có thể ngợi ca và tri ơn Thiên Chúa cách xứng hợp là qua Ngài.
5) Như vậy, tại mỗi hành động Phụng Vụ (giờ kinh, nhất là thánh lễ) của cộng đồng phụng vụ ngày nay chúng ta nhớ lại và làm sống động tâm tình đầu tiên của Lời đã làm Mình và Máu Thánh để ca ngợi “đích thật và chính đáng.”
(i) Chúa Giêsu thể hiện khi Ngài bẻ bánh: đó là tâm tình chúc tụng và tạ ơn[56]. Chúc Tụng và Tạ Ơn, đặc biệt là tạ ơn là bản chất nằm ngay cội rễ của chính hạn từ “Thánh Thể” (Eucharistia).
(ii) Biểu hiện của hai tâm tình này chứa đựng toàn bộ linh đạo Thánh Kinh về sự tán tụng và tri ơn đối với những kỳ công của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Ngài tiến bước trước chúng ta với sự Quan Phòng của Ngài, Ngài đồng hành với chúng ta với những hành động cứu độ liên tục.
(iii) Lời truyền phép trong các kinh nguyện Thánh Thể của Giáo Hội, nêu rõ những tâm tình này: Trong khi với Kinh Nguyện Thánh Thể I và III thì truyền thống chúc tụng và tri ân được làm nổi bật:
Người cầm bánh trong tay thánh thiện khả kính,
ngước mắt lên trời, hướng về Chúa là Cha toàn năng của Người,
bẻ ra và trao cho các môn đệ mà nói:…
Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối,
Người cầm chén quý trọng này trong tay thánh thiện khả kính, cũng tạ ơn Chúa, dâng lời chúc tụng, và trao cho các môn đệ mà nói:.. [58]
4. Ngài Cầm Lấy Bánh Bẻ Ra và Phân Phát…: Lòng Hesed (Trung Nghĩa) của Thiên Chúa Cha Với Nhân Loại
1) Một cách nào đó, Đức Giêsu là người đại diện cho Thiên Chúa Cha, Đấng Nhân Lành, đầy tín nghĩa, ban bánh nuôi dưỡng chúng ta (= Manna trần thế thời Israel, trong hoang địa cho năm ngàn người, và bánh thần thiêng).[59]
Trao bánh là hành động hiếu khách[60] của gia chủ; người khách lạ qua đường nhận sự chia sẻ, trở thành bạn cùng bàn với gia chủ.
Trong bí tích này, chúng ta vui mừng đón nhận lòng hiếu khách của Thiên Chúa, ban cho chúng ta dấu chỉ Giona, đã tự hiến mình cho chúng ta qua Đức Giêsu Con Một Ngài, đã chịu chết và Phục Sinh.
2) Hành động đặc thù của nhân loại trong cử chỉ ban cho, chia sẻ, và hiệp nhất mang một chiều kích sâu thẳm mới mẻ trong bữa Tiệc Ly của Đức Giêsu với các môn đệ: Ngài chính là Lời từ cung lòng Cha, đã yêu mến anh chị em Ngài thì Ngài yêu họ đến cùng (Gioan 13, 1). Trong buổi tối hôm đó, Chúa đã tận hiến trao phó mình cho các môn đệ dưới hình bánh được bẻ ra và phân phát.[61]
3) Tại bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Các con hãy nhận lấy mà ăn, cầm lấy mà uống."
Sự trao ban chính mình của Đức Kitô, có nguồn gốc từ Ba Ngôi Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu, đạt đến đỉnh cao trong hy tế Thánh Giá, đã được báo trước cách bí tích trong Bữa Tiệc Ly.[62] Đức Gioan Phaolô II chia sẻ: “Không thể nào lặp lại những lời truyền phép mà không cảm thấy chính mình rúng động trong cử chỉ thiêng liêng này.”[63]
4) Bẻ bánh và phân phát chính là hành động tạo thành nên cộng đoàn.
(i) Nó không những là dấu chỉ hiệp nhất, nhưng cũng còn là dấu chỉ “Caritas” (bác ái), một mối quan tâm (Care) và yêu thương đến ai đang thiếu thốn. Vì thế nó là một chiều kích nội tại (nghĩa là tự bản thân) của Thánh Thể.
(ii) Đơn giản, vì là Thầy Giêsu đã có lòng thương cảm đến đám đông dân và nuôi dưỡng họ với một ít bánh và vài con cá, vì thế chúng ta là những thành viên của GH ngày nay, cũng được mời gọi quan tâm đến (= Caritas, Care) những tha nhân đang túng thiếu và nuôi dưỡng họ từ khả năng chúng ta.
(iii) Bẻ bánh là một dấu chỉ của lòng yêu thương của chúng ta đối với mọi người và sự dấn thân của chúng ta để biểu lộ tình yêu vủa Thiên Chúa đối với họ.
(iv) Vì vậy bẻ bánh không chỉ là hành động bí tích được vị tư tế của GH cử hành trong Thánh Thể, nhưng những thành viên của dân Thiên Chúa, dòng tộc vương giả, tư tế, ngôn sứ, cũng được mời gọi ở cung cách của bản thân mình trong đời thường, sống Caritas, để dấu chỉ Giona của Đức Giêsu không còn là sự khó hiểu đối với tha nhân.
(v) Vì thế Caritas không phải là một hành động thêm thắt vào lời ngợi khen và tri ơn của Thánh Thể, nhưng nó bén rễ từ đó, và là thành phần của chúng.
5. Đức Giêsu Kitô, dấu Chỉ Giona, là Giao Ước Mới trong Máu của Ngài (Phaolô/Luca), hay Máu Giao Ước (Mt/Mc), là Nhân Loại Mới luôn Nói Fiat (= “Vâng,” OK) với Thiên Chúa Cha
1) Tại núi Sinai Thiên Chúa muốn ký kết với dân một Giáo Ước Mới, vì Giáo Ước cũ dân Israel liên tục phá vỡ đến mức độ trước thời Hồng Thủy, tác giả Kinh Thánh đã diễn tả tình trạng bi thảm này: “Đức Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất, và Ngài buồn rầu trong lòng.” (St 6, 6)
Sau khi cho dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an, Môsê lấy phân nửa phần máu rảy lên bàn thờ, [64] ông lấy cuốn Giao Ước đọc cho dân nghe, và họ đã hứa:
Họ thưa: "Tất cả những gì Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo."(c. 7) Bấy giờ, ông Môsê lấy máu rảy lên dân và nói: "Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này." (c. 8) Cf. (Xh 24, 6-8).
2) Chúng ta biết lời hứa vâng lời của Israel với Thiên Chúa là yếu tố bất đảo ngược trong Giao Ước. Nhưng ngay lúc Môsê lên núi trong bốn mươi đêm ngày chay tịnh để nhận Hai Hòm Bia Đá, dân đã bất trung sụp lạy thờ bò vàng (Xh 32, 7).
3) Trong dòng chảy lịch sử cứu độ, chúng ta chứng kiến Israel liên tục bất trung (Cf. Gr 31, 32); những biến cố lớn như đền thờ bị phá hủy, hai lần lưu đày chỉ là những cảnh báo của Thiên Chúa đối với dân để kêu gọi dân trở lại với Ngài.
3) Đến thời các ngôn sứ, một niềm hy vọng mới vào Giao Ước, đã bắt đầu hé lộ. Thiên Chúa không còn dựa trên sự quyết tâm mỏng manh của con người, dễ sa ngã cho dù “chính tay Ngài cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Aicập, họ vẫn hủy bỏ giao ước của Ngài, mặc dầu Ngài là Chúa Tể của họ” (Cf. Gr 31, 32). Nhưng Ngài sẽ thiết lập một Giao Ước mới (Gr 31, 31), một Giáo Ước nội tâm: Ngài sẽ ghi vào lòng dạ họ, sẽ khắc vào tâm khảm họ Lề Luật của Ngài. Ngài sẽ là Thiên Chúa của họ, còn họ sẽ là dân của Ngài. (Cf. Gr 31, 33).
4) Giao ước nội tâm này ngày càng được biểu lộ rõ ràng qua chính sự xuất hiện của nhân vật thần bí, Người Tôi Tớ Đau Khổ của Đức Chúa, đảm lãnh tội của muôn dân, chịu đau khổ và bị đâm thâu vì họ, để đem lại sự cứu độ cho dân (Cf. Isaia, toàn bộ chương 53, đặc biệt câu 12).
5) Con người thần bí này đến thời Tân Ước đã hiện rõ nơi Đức Giêsu Kitô. Nơi Ngài, chỉ có tiếng “vâng”
Đức Kitô Giê-su, Con Thiên Chúa, …, đã không vừa là "vâng” vừa là "không," nhưng nơi Ngài chỉ toàn là "vâng." Quả thật, mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là "vâng"[65] nơi Ngài. (2 Cor 1, 19-20).
Kết
1) Dấu chỉ lớn nhất qua mọi thời đại vẫn là dấu chỉ Giona: dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, được thực hiện nơi chính Con Một Ngài đã tự hiến vì chúng ta.
Tông Huấn Verbum Domini[66] đã nói tương tự như thế khi khai mở nội dung của Tông Huấn ở Phần I “Lời Thiên Chúa”:
1) “Điềm mới lạ của Mạc Khải Kinh Thánh đến từ sự kiện Thiên Chúa tỏ mình cho mọi người biết qua cuộc đối thoại mà Ngài muốn thiết lập với chúng ta,” [67] “do tình thương chan hòa của Ngài, đã ngỏ lời với loài người như với bạn hữu để mời gọi họ và chấp nhận họ đi vào cuộc sống của chính Ngài.”[68]
2) Thế nhưng, chúng ta vẫn chưa hiểu đầy đủ sứ điệp của Lời Tựa của thánh Gioan, nếu chúng ta chỉ dừng lại với sự kiện Thiên Chúa muốn đi vào hiệp thông với chúng ta trong tình yêu.[69]
3) Thật vậy, Ngôi Lời của Thiên Chúa, mà nhờ Ngài “muôn vật được tạo thành” (Gioan 1, 3), “đã trở nên xác phàm” (Ga 1, 14), vẫn là chính Ngôi Lời hiện hữu từ “lúc khởi đầu” (Ga 1,1) trong cung lòng Thiên Chúa Cha. Nay đến thời sau hết, Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta như một Mầu Nhiệm tình yêu vô tận, tự diễn đạt Lời của Ngài trong Chúa Thánh Thần. Nói cách khác, Ngôi Lời đã mạc khải chính Thiên Chúa cho chúng ta trong tương quan trao đổi tình yêu giữa các Ngôi Vị Thiên Chúa, và mời gọi chúng ta dự phần vào tương quan tình yêu đó. [70]
4) Vì vậy, một khi được tạo dựng nên theo hình ảnh giống với Thiên Chúa tình yêu, chúng ta chỉ có thể hiểu được chính mình khi biết đón nhận Ngôi Lời và tác động của Chúa Thánh Thần.
Chính nhờ ánh sáng của Mạc Khải do Ngôi Lời Thiên Chúa thực hiện mà bí ẩn trong thân phận con người được sáng tỏ trọn vẹn.”[71]
5) Dấu chỉ tình yêu đó của Lời “đã yêu thì yêu đến cùng” (Ga 13, 1), nay đã tự mình biến thành bánh để nuôi dưỡng nhân loại. Và ai ăn Ngài thì được sống muôn đời, vì Ngài chính là lương thực trường sinh.
6) Đọc được Dấu Chỉ Thời Đại ngày nay chính là đọc được dấu chỉ Giona mà Thiên Chúa Cha đã ban cho con người qua chính người Con duy nhất của Ngài, đã yêu thương và tự hiến vô điều kiện, đã chết đi nhưng đã sống lại, để cho con người khi đến với Ngài (thì sẽ không còn đói) và Tin vào Ngài (sẽ không còn khát), thì có thể vượt qua các biến cố của thế giới Toàn Cầu Hóa ngày nay, một cách này cách nọ đang định mạng hóa nhân loại, để sống sung mãn đời sống của con cái Thiên Chúa trong tự do.

Đức Bà Chỉ Bảo Đàng Lành
F. Vital Luca Nguyễn Hữu Quang, FSC
[1] Cf. Benedict XVI (2007). Jesus of Nazareth, Ch V. London, New York: Doubleday.
[2] A discretion. Cf. Mt 6, 6 “Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.”
[3] Trong việc bắt thăm, sỏi trắng là thuận tình, là quan tâm đến.
[4] Chúa đặt tên vì yêu thương. Cf Giêrêmia 1, 5: "Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân." Is 49, 1: “Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi.”Gal 1, 15-16:“… Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn ở trong lòng mẹ và đã gọi tôi nhờ ân sủng Ngài. Ngài đã đoái thương mạc khải Con của Ngài cho để tôi loan báo Tin Mừng về con của Ngài cho các dân ngoại. Tv 139, 16 (Kinh chiều thứ tư tuần 4): “Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy, mọi ngày đời được dành sẵn cho con đều thấy ghi trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu con khởi sự.” Ephêsô 1, 4: “Trong Đức Ki-tô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ.”
[5] Personal.
[6]reach up to him.
[7] Cf. Chúng ta sẽ nhận ra cách sâu xa hơn trong bình luận về kinh Lạy Cha sau đây.
[8] Cũng như mối tương quan giữa người nam và nữ, có một chiều kích hoàn toàn biệt vị đòi hỏi một phạm vi kín đáo để bảo vệ nó, mặc dù cùng lúc ấy mối tương quan của cả hai trong hôn nhân và gia đình tự bản chất cũng đòi buộc trách nhiệm cộng đồng.
[9] Luca 11, 3 “xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày.”
[10] Linh mục Kolvenbach thêm vào “nếu chúng ta cầu xin Cha chúng ta trên Bàn Tiệc của Đức Chúa và khi cử hành Bữa Tiệc ly của Đức Chúa, làm sao có thể miễn trừ chúng ta khỏi quyết tâm kiên định giúp đỡ cho mọi người, những anh em chúng ta, cho họ kiếm được cơm bánh hằng ngày?” (Der österliche Weg, tr. 98).
[11] Mỗi ngày xin cho có đủ ăn, là người nghèo.
[12] Tuy trong Hội thánh luôn luôn có những người từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa, những người lệ thuộc vào Thiên Chúa cách triệt để, nhờ vào lòng rộng rãi của Ngài mà chúng ta được ăn. Như thế, theo cách này, họ nhắc nhở đến sự vô tâm cũng như sự yếu đuối đức tin của chúng ta. Người môn đệ đích thực là người đã từ bỏ thế gian, sự giàu có và vinh quang của thế gian vì đức tin và họ không còn xin bất cứ điều gì ngoài những gì họ cần để sống.
[13] Hiểu theo nghĩa của lời Chúa, bánh manna trong sa mạc. Mỗi ngày lấy đủ dùng không được lấy dư cho ngày hôm sau. Không có kiểu thu vén như người giàu thu vén vào kho lẫm của mình và tự nói với mình: hồn ta ơi hãy nghỉ ngơi lâu dài…
[14] (De dominica oratione 19; CSEL III, 1, tr. 281).
[15] Đúng thế, từ thời Origen, một ví dụ về từ này đã tìm thấy trong tấm giấy cói được viết từ thế kỷ thứ năm sau Đức Kitô. Nhưng chỉ một ví dụ này thôi không đủ chắc chắn cho chúng ta về ý nghĩa của từ này, dù sao chăng nữa vẫn khá bất thường và hiếm hoi. Chúng ta cần phải lệ thuộc vào ngữ nghĩa học và nghiên cứu về bối cảnh này chặt chẽ hơn.
[16] Cách chú giải khác duy trì rằng cách dịch đúng là “bánh tương lai,” cho ngày hôm sau. Nhưng lời cầu xin để ngày hôm nay nhận được lương thực của ngày mai hình như không có ý nghĩa. Điểm tham khảo cho tương lai có nghĩa hơn nếu như đối tượng của lời cầu xin là lương thực thật sự không thuộc về tương lai
[17] Hiến chế mục vụ “Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay” (Gaudium et Spes (GS). Cf. http://saokhue-saokhue.blogspot.com/2011/10/dau-chi-cua-thoi-ai.html.
[18] Kiểu tương tự Mc Donalds, là cửa hàng bán thức ăn nhanh.
[19] Bán gà rán.
[20]Cf.(http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=To%C3%A0n_c%E1%BA%A7u_h%C3%B3a&oldid=4377487”). Tuy nhiên tức khắc, nó đặt ngay ra vấn đề là ta không dễ dàng tìm ra một giải pháp thay thế cho hệ thống chính trị và hiến pháp hiện tại dựa trên khái niệm nhà nước-quốc gia (Các nước châu Âu đang cố gắng làm điều này; họ đã đi đến giai đoạn có một Quốc Hội chung cho châu Âu).
[21] Lý do là vì thực tế lịch sử chứng minh rằng, các thực thể này đã từng gây ra những tác động tiêu cực trong suốt lịch sử do tính chất can thiệp thô bạo của nó
[22] Các tổ chức đa phương kiểu WTO (WB, IMF) này sẽ mở rộng việc tự do đối với các giao dịch thương mại, và thông qua các hiệp ước đa phương có quyền hạ thấp hoặc nâng cao hàng rào thuế quan để điều chỉnh thương mại quốc tế mà một nhà nước phải tuân thủ. Cf.(http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=To%C3%A0n_c%E1%BA%A7u_h%C3%B3a&oldid=4377487”).
[23] Ibid. Các tổ chức phi chính phủ muốn thay vào khoảng trống này, tuy nhiên họ thiếu tính hợp pháp và thường thể hiện các tư tưởng đảng phái quá nhiều để có thể đại diện tất cả công dân trên thế giới.
[24] Thật sự được nhận từ ngày 7/11/2006.
[25] M. Wolf (11/2/2000). Globalization:The Big Lie About Inequality.
[26] World Youth Report (WYR, 2003, tr. 291) cho biết, vào thập niên 1990, các xứ nghèo đã có sự thu nhập tăng lên 5% mỗi năm.
[27] World Bank (2002). Globalization, Growth and Poverty.
[28] như Trung Quốc, Ấn Độ, Uganda và Việtnam?
[29] WYR (Ibid., tr. 2). Về vấn đề này, trong loạt Thuyết Trình của các Vị Chủ Tịch (the Presidential Lecture Series) ngày 25/6/2004, Juan Somavia Tổng Giám Đốc của ILO đã nêu lên những điểm chính yếu của bản báo của ủy ban: Trong khi nền kinh tế toàn cầu tiến lên trước thì những thiết chế kinh tế và xã hội thì vẫn còn trì trệ theo sau. ILO là International Labour Organization “Tổ Chức Lao Động Thế Giới.”
[30] Furlong, A. & Cartmel, F. (1997). Young people and social change: Individualization and risk in late modernity; Miles, S. (2000). Youth lifestyles in a changing world
[31] A. Giddens (1991, tr. 64). Modernity and Self-Identity.
[32] Một thế giới vô danh tính, di dân tính, tục hóa.
[33] WYR (2003, tr. 293).
[34] WYR (2003, tr. 293).
[35] Ibid.; Cf. C. MCMurray &ø R. Smith (2001). Diseases of globalization: Socioeconomic transitions and health.
[36] Octogesima Adveniens.
[37] Ipod, Ipad, cellphone càng lúc càng tinh vi. Nay có khi không cần nhấn mà dùng cảm ứng, và đang đến “âm ứng” (nói và máy nghe được hiệu lệnh).
[38] Cf. H. Cox (tr. tr.40.
[39] Louis Wirth (1957, tr. 54). Urbanism as a way of life. Trong Paul K. Hatt & Albert J. Reiss (Eds). Cities and Society. New York: The Free Press. Cf. H. Cox (tr. 36).
[40] Loan Báo Tin Mừng, số 9.
[41] Khi ta nói Tin Mừng đến giải phóng mọi “quyền lực thần thiêng” tha hóa ẩn tàng nói trên, đó không phải là sự tuyên bố rằng chúng phải lùi bước và tự biến mất. Những năng lực chiều sâu “libido hay Id” và sức ép của nền kinh tế và văn hóa toàn cầu hóa vẫn còn đó trong xã hội chúng ta.
[42] H. Cox: “For the Bible, there are no powers anywhere which are not essentially tameable and ultimately humanizable” (Ibid., tr. 112)
[43] Jacobs (1963, tr. 55-56). ...But you do not want them in your hair.
[44] Rõ ràng quan hệ này giúp soi rọi nhiều những khả năng mang tính nhân bản tích cực của đời sống đô thị và giúp chận đứng ngay mọi cám dỗ muốn lôi kéo con người về những tương quan hòa đồng dễ chung đụng của đời sống tiền đô thị .
[45] Mt 14, 13 -21; Mc 6, 30-44; Lc 9,10 -17.
[46] http://www.kinhthanhvn.org/printItem.jhtml?itemId=270&a=p
[47] Đức Giêsu cũng nhiều lần cảnh báo họ: “Tôi đã bảo các ông: các ông đã thấy tôi mà không tin.” (Gioan 6, 36).
[48] Xem lãnh đạo Do Thái cũng đã từng hành sử như thế đối với Đức Giêsu: Bấy giờ có mấy kinh sư và mấy người Pha-ri-sêu nói với Đức Giê-su rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ." Người đáp: "Thế hệ gian ác và ngoại tình này đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ngôn sứ Giôna. Quả thật, ông Giô-na đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm như vậy (Mt 12, 38-40).
[49] Chính là Thánh Thể.
[50] Cf. Benedict XVI (2011, tr. 125). Jesus of Nazareth II.
[51] Hesed trong tiếng Hibri có sắc màu khác hơn là tình yêu mà PV Giờ Kinh dịch. Nó nói lên Trung Tín và Ân Nghĩa của Thiên Chúa đối với dân và dân đối với Ngài và bạn hữu đối với nhau. Cf. Báo Chia Sẻ số 65 (tháng 3/2012, tr. 112-125) hay Báo Tâm Giao số 6 tháng 9/2011: “Tín như Trung Nghĩa.”
[52] Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng.
[53] GLHTCG, số 1348.
[54] Chúc tụng và bẻ ra euvlogh,saj e;klasen
[55] PV các Giờ Kinh dịch dư: dâng lời chúc tụng tạ ơn. Và bẻ ra. Nguyên bản Hy Lạp chỉ có Tạ Ơn (kai. euvcaristh,saj e;klasen kai. ei=pen:..)
[56] "Tibi gratias agens benedixit (= “Đang khi Ngài dâng lời chúc tụng và tạ ơn.") Cf. Lá Thư Thứ Năm Tuần Thánh sau cùng của Đức Gioan Phaolô II. Từ Bệnh Viện Gemelli ở Roma, ngày 13/3/2005, Chúa Nhật thứ Năm Mùa Chay, và năm thứ 27 triều đại Giáo Hoàng của Ngài. Cf.
(http://gpcantho.com/ArticlesDetails.aspx?ArticlesID=351).
[57] Trong Kinh Nguyện Thánh Thể II và IV thì chỉ có “Người cầm lấy bánh, tạ ơn…, và Người cầm lấy chén, cũng tạ ơn…
[58] Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma, số 83). Cf.
(http://gpnt.net/thuvien/phungvu/missaleromanum_03.htm#_Toc503590226#_Toc503590226.
[59] “bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian (Gioan 6, 32-33).
[60] The hospitality. Lòng hiếu khách của Abraham khi mau mắn mời ba vị khách nghỉ tại lều của mình. St 18, 4.6
[61] Hành động bẻ bánh của Đức Giêsu đã trở thành biểu tượng của toàn thể mầu nhiệm Thánh Thể: Trong sách Công Vụ và vào thời GH tiên khởi, hành động bẻ bánh là dấu chỉ và biểu tượng của Thánh Thể. Cử chỉ bẻ bánh, mà Ðức Ki-tô đã thực hiện trong bữa tối sau hết, đã trở thành tên gọi cho toàn bộ cử hành Tạ Ơn vào thời các Tông Ðồ. Nghi thức này nói lên rằng các tín hữu tuy nhiều, nhưng vì hiệp thông cùng một bánh ban sự sống là Ðức Ki-tô, Ðấng đã chết và sống lại vì phần rỗi thế gian nên trở thành một thân thể (1 Cor 10,17)
[62] Cf. Lá Thư Thứ Năm Tuần Thánh sau cùng của Đức Gioan Phaolô II.
[63] Ibid.
[64] Biểu tượng Thiên Chúa, và ông ký kết với Thiên Chúa.
[65] Nghĩa là được hiện thực nơi Ngài.
[66] Tông Huấn Lời Đức Chúa (Verbum Domini, VD) được công bố 30/9/2010.
[67] VD, số 6; Cf. Đại Hội Thường Lệ lần XII của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Relatio ante disceptationem, I : OR bản tiếng Pháp, 4-11-2008, tr. 9.
[68] Cf. Hiến Chế Dei Verbum, số 2.
[69] VD, số 6.
[70] VD, số 6.
[71] Ibid.
Nhận xét này đã bị quản trị viên blog xóa.
Trả lờiXóa