11/7/12

Đường về TAMI

Xem hình

“Đường về Tami” chỉ có một mục tiêu nhỏ bé là giới thiệu với độc giả một Trung tâm rất La San nơi một vùng rất xa, xa hẳn mọi văn minh thế giới, không điện nhà, không đường tráng nhựa, chợ búa mỗi tuần chỉ họp một lần, chỉ có một trạm xá… đã hoạt động được 40 năm với chỉ tiêu làm cho “con người đứng lên” song song với việc rao giảng Tin Mừng, theo xác tín của vị Giám mục công đồng Vaticanô II và tinh thần Thông điệp Populorum Progressio (Phát triển các dân tộc) của cố Đức Giáo Hoàng Phaolô VI.

 40 năm dài đằng đẳng. Những năm tháng đầu thật là vất vả. Và thực sự có thể nói được tổ chức của Trung Tâm mới được tương đối ổn định từ năm 2000 trở đi, sau 30 năm gian khổ vừa làm vừa dò tìm hướng đi thích hợp. Người ta nói là đất bị chúc dữ, các già làng thì nghi kỵ, tiện nghi không có, không có nước, không có điện….
Chỉ có thiện ý và làm việc không mệt mỏi mà thôi.
Những chi tiết sau đây một phần do mắt thấy tai nghe, nhưng phần nhiều dựa theo quyển sách “Semer l’avenir” của bà Gabrielle Huet vừa xuất bản tháng 6 năm 2012.
Nhật Nhật Tân, fsc

Tami là một nông trại La San, do các Sư Huynh người Tây Ban Nha điều hành, ở tận miền bắc xứ Togo, gần giáp ranh giới Guina, cách thành phố Dapaong 15 cây số, và cách Thủ đô Lomé hơn 600 cây số. Khoảng cách tương đương Saigon-Pleiku. Đường đi tương đối tốt. Cũng có chỗ nhiều ổ gà. Nhưng tốt hơn đường Saigon-Ban Mê Thuột, hoặc Đà Lạt-Ban Mê Thuột. Xe nhà khởi hành từ Lomé lúc 5g45 sáng và đến Tami lúc 4g30 chiều. Cũng bằng thời gian đi Saigon-Pleiku. Cũng có dừng nghỉ dọc đường 2 lần, mỗi lần độ 15 phút để “nạp nhiên liệu”. Xe đò đi phải mất từ 12g đến 14g. Nhưng chỉ tới Dapaong. Từ Dapaong đi Tami còn 15 cây số nữa.
Nước Togo chia làm 5 vùng. Vùng thuộc thành phố Dapaong có 50 000 dân, nằm ở miền bắc. Khí hậu chia làm 2 mùa: mùa nắng từ tháng 11 đến tháng 5, mùa mưa hay ẩm ướt từ tháng 6 đến tháng 10. Dân số cả nước chỉ có gần 6 triệu người. Có một phi trường dân sự duy nhất tại thủ đô Lomé và một con đường nhựa xuyên từ nam lên bắc. Người công giáo chiếm đến 30%.
Giám mục Barthélémy Hanrion: người đi xây dựng
Tất cả những ai quen biết vị Giám mục người Pháp nầy đều nhận định điều quan trọng dưới cái nhìn của ngài là làm cho “con người đứng lên”. Nhân kỷ niệm 25 năm vào năm 2008 của một trang trại do ngài thành lập, ông Ogamo Bagnah, cựu Bộ trưởng rất quen biết với ngài đã nói rằng ngài  “không muốn dạy giáo lý bằng tiếng la-tinh khô khan nữa” và “việc rao giảng Tin Mừng và sự phát triển kinh tế phải đi đôi với nhau”. Ngài tham dự khóa cuối cùng của Công đồng Vaticanô II và Thông điệp Populorum Progressio (Phát triển các dân tộc) của Đức GH Phaolô VI, vào năm 1966, là một tiếng vang dội rất lớn trong tầm nhìn suốt quá trình mục vụ của ngài. Là một con người rắn chắc, thực tế, rất năng động, một nhà lãnh đạo giỏi, biết chiết ra những lợi ích của những người dưới quyền, biết liên kết họ lại với những sáng kiến của mình. Ngài cũng là một người đi sát thực tế, một người sáng tạo, đi gần với những lo toan hàng ngày của con người và nhất là của người nghèo.  
Ngài không lùi bước trước một cố gắng nào, ngài xác tín rằng không thể nào xây dựng Giáo Hội mà không ưu tiên làm cho “con người đứng lên”. Chính vì vậy mà ngài có một chương trình to lớn, bao gồm sự phát triển trong hết mọi lãnh vực. Và luôn mãi như thế, nên trong suốt thời kỳ thi hành chức vụ Giám mục, ngài đã thực hiện (Ngài qua đời vào tháng 4 năm 2000):  
  • Để chăm sóc sức khỏe nói chung ngài đã thành lập nhiều trạm phát thuốc và một bệnh viện tại Dapaong vì thấy tình trạng nhiều trẻ em bị chết yểu;
  • Thành lập một trung tâm cho người khuyết tật ở Bambouaka, tiếp nhận rất nhiều người bị bại sốt tê liệt và phát triển phong trào phục hồi chức năng nhờ làm việc;
  • Thành lập hội NOFIVA (Nouvelle vie Familial du Diocèse de Dapaong, để giúp cho các bà mẹ trẻ biết về sinh sản và kế hoạch gia đình ;
  • Trong lãnh vực trường học, ngài đã thành lập 26 trường tiểu học; một trường đầu tiên huấn luyện giáo viên ở miền Bắc; các trung tâm dạy nghề, một trường trung học cho nữ sinh; 3 mái ấm để học sinh đến làm việc ban tối nhờ có điện, hoặc để nghe thuyết giảng hay tìm tài liệu; 
  • Thành lập 2 trung tâm huấn luyện CFRT cho người trẻ vùng quê Tami (Centre de formation rurale de Tami) và một trung tâm CARTO khác ở Orago (Centre d’animation rurale de Tambimong Orago);
  • Trong chương trình truyền thông, ngài nâng đỡ và khích lệ phổ biến tờ báo của giáo phận Laafia (bình an).
Trong một vùng mà hơn 90% dân số là nông dân, mục tiêu ban đầu và vẫn tồn tại cho đến ngày hôm nay là hướng dẫn các nhà nông trẻ làm nông bằng những phương pháp hợp lý hơn nhằm cải thiện năng xuất, nhắm đến việc tự túc lương thực và giữ họ lại quê hương của mình. Vì vậy, trong suốt thời gian thực hiện những chương trình nêu trên, ngài luôn luôn nghĩ đến việc đào tạo một nhóm người ở trong vùng có khả năng đảm nhận những trách nhiệm quan trọng trong mọi lãnh vực.
Ngoài ra, để bảo đảm cho việc tồn tại những cơ sở nầy, ngài nảy ý định huy động các bạn bè của ngài và các mối quan hệ của ngài ở nước Pháp và vào năm 1972, ngài thành lập một hội mang tên là ADESDIDA (Association pour le Développement Economique et Social du Diocèse de Dapaong), rồi đến hội “Những người bạn  của Ogaro” (Les Amis d’Orago). Những hội nầy hỗ trợ toàn phần hay một phần các cơ sở được thành lập, nhờ vào các sự đóng góp của các thành viên của hội.
Khởi đầu lịch sử Trung Tâm
Lịch sử của Trung tâm Tami được phát xuất từ một con người, một “nhân vật chủ chốt” của Công đồng Vaticanô II, vị Giám mục Hanrion, giám mục đầu tiên của miền bắc xứ Togo.
Vào năm 1971, khi ngài quyết định mở một trung tâm huấn luyện nông nghiệp, ngài đi tìm những tu sĩ nhạy cảm về lãnh vực nầy để thực hiện dự tính và đồng thời tìm nguồn tài trợ để hoạt động. Lúc đó, tại miền bắc khô khan và dường như bị bỏ rơi nầy, chưa có một trung tâm thuộc dạng nầy. Sau khi được giấy phép của nhà nước trong tay và với sự hỗ trợ hết mình của hội Adesdida mà ngài mới thành lập, ngài đến Roma để tìm nhà Dòng quan tâm và có nhân sự cần thiết để thực hiện và triển khai chương trình.
Ngài đến gặp Bề Trên Tổng Quyền Dòng La San và được gởi đến gặp Sư huynh Fernando Izaguine, Giám Tỉnh Tây Ban Nha. May mắn trùng hợp là vì hiện thời do những xáo trộn ở Guinée-Equatoriale nên có khoảng 30 sư huynh Tây Ban Nha bị đuổi khỏi xứ và đang trong tình trạng sẵn sàng để đi thừa sai nơi các xứ khác.
Và như vậy là các sư huynh Tây Ban Nha đã đến thực hiện chương trình to lớn nầy đến nay đã hơn 40 năm. Các ngài đã làm nên lịch sử Tami. Một lịch sử vượt hơn một ước mơ. Biến sa mạc khô cằn thành vùng đất màu mỡ, như người dân Do Thái; làm cho “người dân Tami đứng lên”.
Trung Tâm huấn luyện Tami sau 40 năm
Sau 40 năm hoạt động, Trung Tâm đã tương đối ngày càng ổn định hơn về cơ sở vật chất cũng như về chương trình đào tạo ngày càng rõ nét.
a)    Cơ sở vật chất
TT có được khá đầy đủ về cơ sở vật chất và những phương tiện để thực hiện chương trình huấn luyện:
  •  Nhà ở cho các Frères, cho thực tập viên, cho khách ở xa đến, nhà kho …- Máy cày, máy xới – những tấm năng lượng mặt trời cung cấp điện dùng thắp sáng, chạy tủ lạnh, máy giặt… ngày đêm – máy phát điện chạy mỗi ngày 2 tiếng vào ban tối thấp sáng cho gia đình các thực tập viên và nhân viên – 2 xe hơi Toyota để đi công tác, chỡ hàng – giếng đào và hồ chứa nước trên cao (châteaux d’eau) - 5 đập chặn nước (barrage) giữ nước mưa lại trong các hồ hơn 100 000m3 đủ để tưới hoa màu vào suốt mùa nắng (xem bản đồ) và các trạm bơm, ống dẫn nước. Một dàn 8 con bò kéo cày.
b)  Chương trình huấn luyện
Ngay từ khởi sự cho đến hôm nay, Trung Tâm vẫn đeo đuổi một mục tiêu ban đầu là làm cho “con người đứng lên” bằng việc đào tạo những người nông dân trẻ để họ có thể là những người linh hoạt môi trường họ sống sau khi được đào tạo. Những người được gởi đến đây ban đầu là những người được các cụ già trong làng tuyển lựa và gởi đến. Nhưng ngày nay, thì họ tự động đến hay do các người được đào tạo cũ giới thiệu. Họ đi cả vợ chồng con cái và ở nội trú tại Trung tâm. Họ chỉ biết một vài tiếng Pháp. Chương trình học nhằm mục đích giúp người dân vùng Tami thiếu thốn có thể vươn lên, sống đúng nhân phẩm của mình, gồm có lý thuyết chút chút và thực hành các môn như: vệ sinh, cải tiến dinh dưỡng, quản lý tài sản gia đình, làm việc đồng áng như trồng lúa, trồng bắp, gieo vào tinh thần bình đẳng nam nữ, nâng cao phẩm giá người phụ nữ, xóa mù chữ… . Mục tiêu nhắm trước tiên là cải tiến trồng có kỹ thuật những loại hoa màu địa phương, cũng như nhắm đến những loại mà người địa phương thường dùng để làm lương thực hằng ngày, làm tăng năng xuất cũng như tăng diện tích trồng trọt, để quản lý đất đai đừng bỏ hoang…
Có 2 nhóm được đào tạo:
  • Nhóm 1: từ tháng 5 đến tháng 12. Những người nầy tập trung học cách làm việc đồng áng thực tế trong mùa mưa, từ khi dọn đất đến khi thu hoạch. Nông sản trồng chủ yếu trong mùa nầy là lúa, bắp và một loại khác của địa phương gọi là “mil” (trái giống giống trái bắp, nhưng hạt nhỏ hơn, trái có màu đen đen). Nhóm nầy có một khoảng đất mênh mông hơn 30 mẩu để thực tập, chia ra từng lô (parcelle) – (xin xem bản đồ).
  • Nhóm 2: từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Nhóm nầy tập trung học cách trồng các loại rau quả thực tế trong mùa nắng như rau cải, hành, cà… Các thực tập viên có một khu vực riêng được gọi là Trung tâm trồng hoa màu (Centre maraicher) để vừa học vừa thực tập trên 2 mẩu 7 (xem bản đồ ở số 15). Nước chứa trong các đập được dẫn đến Trung tâm nầy để tưới cho hoa màu thực tập thực tế. Vì vậy, vào mùa nắng, các nơi chung quanh đều khô cằn, nhưng vào đây thì xanh tươi. Lúc trước vùng nầy chỉ trồng tỉa vào 4 tháng mùa mưa. 8 tháng còn lại trong năm rảnh rang không biết làm gì sinh lợi. Nhiều người bỏ đi nơi khác kiếm sống cũng vì vậy.
c)  Cách tổ chức cho những người đến thực tập
Nguyên tắc chung nhắm đến là ban Giám đốc cố gắng làm sao để cho việc đào tạo nầy được hoàn toàn miễn phí hoặc họ phải bỏ ra chi phí rất ít, đồng thời Trung Tâm cũng không phải bỏ ra số tiền quá lớn để nuôi các gia đình gồm vợ chồng con cái được đào tạo trong một thời gian dài. Vì vậy ban Giám đốc mời gọi sự đóng góp tích cực của các người lớn trong gia đình các thực tập viên.
  • Về lương thực hằng ngày: các thực tập viên phải tự lo về việc ăn uống bằng thành quả lao động của mình qua việc thực tập thực tế ngoài ruộng. Trung tâm có đủ lương thực của năm trước, để “ứng trước” cho các gia đình lo việc ăn uống.
  • Ngoài những việc lao động tập thể hay cá nhân, các thực tập viên đóng góp một cách khác nữa là chăm nom  súc vật, làm các việc lặt vặt trong trang trại. Thu hoạch của việc chăn nuôi dùng vào việc tổ chức trung tâm: thuê mướn các thầy dạy về chăn nuôi, dạy trồng hoa màu, cô giáo giữ trẻ con cái của các thực tập viên để cha mẹ rảnh rang đi làm…. Ngoài ra, có vài gia đình nuôi thêm bầy gà, đây cũng là thu nhập thêm cho gia đình. Những sản phẩm khi thu hoạch do cá nhân hay tập thể làm ra tại trung tâm, sẽ được chiết tính trừ lại cho Trung Tâm những gì mà Trung Tâm ứng trước như : hạt giống, phân bón… 
d)    Khi trở về làng
Đây là điểm vừa tế nhị vừa quan trọng đối với tổ chức của Trung tâm. Vì vậy mà Trung Tâm rất quan tâm đến việc theo dõi, đồng hành. SH. Bề Trên hay giáo viên dạy môn nào thì đi đến các làng có học viên để xem và giúp họ trong bước đầu khi trở về làng, qui tụ những người trẻ khác trong làng để trồng trọt theo phương pháp mới. Việc theo giúp các học viên cũ thưa dần tùy theo nhu cầu, không để họ nghĩ rằng Trung Tâm sẽ giúp họ hoài hoài.
Đây là kế hoạch mà Đức Cha Hanrion đã mơ ước và các SH. La San đã biến thành hiện thực đã 40 năm nay, nhờ các Hội từ thiện hỗ trợ.
e)    Một số chi tiết của vài công việc coi như tạm ổn định
  • Ngôi trường mang tên Frère Pablo : Frère Pablo Gurrachara, người Tân ban nha, sống tại Tami vào năm 1984-1985 và từ năm 1990-1993. Frère Pablo có một điểm đặc biệt là rất thương trẻ nhỏ, dạy chúng về Chúa, về Mẹ Maria và dạy chúng nói, đọc, viết, làm tính. Mãi đến năm 1998 mà nhiều trẻ em ở Tami chưa bao giờ đặt chân đến trường. Những em nào có cơ may đến trường thì phải đi bộ từ 3 đến 5 cây số. Vả lại, ở đó thì làm gì có dạy đạo. Vì vậy mà các Frères ở Tami với sự trợ giúp của các phụ huynh, mở một trường tiểu học bên cạnh Trung tâm. Để tưởng nhớ Frère Pablo là người qua việc làm của mình đã gợi lên ý đem con chữ đến cho trẻ thất học, nên các Frères đặt tên là trường « Frère Pablo ». Nhà trường khánh thành vào năm 2000 và đến năm học 2005-2006, trường có đủ lớp bậc tiểu học và đến năm học 2007-2008, trường được nhập vào hệ thống trường công giáo của giáo phận Dapaong. Hiện nay, trường được 320 học sinh mà lớp đầu tiên có đến 80 em nhưng không chia ra hai lớp được vì thiếu giáo viên. Các lớp trên ít hơn, nhưng lớp lớn nhất cũng có 30 em. Vì không có tài trợ nên trường phải thu học phí của học sinh để trả thù lao cho giáo viên và sinh hoạt của trường. Năm nay, học sinh đóng học phí 2700 quan / trọn năm (khoản 6USD/năm). Năm sau dự định sẽ tăng 3500 quan/năm (khoảng 8USD/năm). Nhưng nhiều gia đình không có khả năng để đóng học phí cho con nên đành để con ở nhà. Lương cô giáo thì chỉ có 15 000 quan/tháng (khoảng 30USD/tháng). Có điều nhà trường rất được phụ huynh tin tưởng vì có hiệu quả. Nhiều phụ huynh có con học ở trường công, cũng đem gởi con vô đây học thêm. Nhận học sinh cũng dể dàng. Muốn xin vô lúc nào cũng được, chuyển trường cũng dễ.
  • Giếng nước : Nước ở Châu Phi rất nhiều. Nhưng có thể là không có gì hết. Điều ưu tư số một khi các Frères đến Tami là vấn đề nước. Từ năm 1976 đến năm 1994, các Frères đã cho khoan cả trăm cái giếng trong vùng Tami. Chỉ cần đào xuống khoảng 20 mét là có nước ngon lành. Tưới ruộng thì không đủ, nhưng xài dư quanh năm. Một ngày kia, một cụ già quê Tami, biết chút tiếng Pháp nói với các Frères rằng : « nầy Frère, chúng tôi sống ở đây hàng bao nhiêu thế kỷ rồi mà chúng tôi không biết có nước dưới chân. Thiên Chúa của người Trắng quyền năng thật và chúng tôi hiểu tại sao các người Trắng cho con đi học ».
  • Đập giữ nước : Vào cuối những năm 80, Frère Manuel Readigos vừa mới đổi đến cộng đoàn Tami đã nhìn thấy ngay nhu cầu nên đưa ra ý kiến làm đập giữ nước mưa lại để dùng trồng hoa màu vào mùa khô. Bề Trên nhà lập tức phán : Frère điên rồi ! Có lẽ vì người ta cũng hay nói Frère nầy có những ý tưởng không giống ai. Thế nên, phải đợi đến 16 năm sau, ý tưởng « lập dị » nầy mới trở thành hiện thực. Rất tiếc là Frère Manuel vì một tai nạn, không còn sống để thấy được tận mắt ý tưởng « lập dị » của mình mang lại lại ích lớn lao như thế nào cho người dân Tami. Đây là công trình do Frère Felipe Garcia khởi xướng và dĩ nhiên với rất nhiều niềm tin, nhiều nhẫn nại, nhiều bạn bè và cũng phải có nhiều … máy móc tốt nữa. Để dẫn nước được đến nơi cần dùng, nhiều chuyện kéo theo sau: trạm bơm, ông dẫn, điện… Ngài đến làm huynh trưởng cộng đoàn vào tháng 3 năm 1999. Chiều chiều đi dạo quanh những cánh đồng bao la bát ngát sau cơn mưa, ngài thấy có rất nhiều nước còn đọng lại trên những con suối mà mùa nắng thì khô queo, nhưng mùa mưa thì như một con sông. Thế nhưng tất cả nước nầy đều chảy tận đâu đâu để sau cùng thì đổ ra biển. Thế là ngài suy nghĩ phải làm sao giữ nước nầy lại để dùng trong mùa nắng. Nghĩ là làm. Đó là vào năm 1999. Lúc đó chưa có phương tiện gì. Ngài đi lên phố mua những bao đan ny-lông, điều khiển các thực tập viên đổ cát vào và tấn chặn con suối lại, cưa các cây khuynh diệp to chặn phía sau các bao cát, coi đây như là bờ đê đầu tiên để giữ nước. Các thực tập viên vẫn làm nhưng nghĩ trong đầu rằng ông Trắng nầy điên quá sức « bỏ cát vào các bao ny-lông mới tinh, phí của biết bao, ý tưởng thật kỳ cục ! ». Những người trong làng thì thực tế hơn nên ban tối, đến đổ cát ra và chôm các bao về nhà. Còn những cụ già đi ngang thấy sự việc như vậy, cũng chẳng hiểu mô tê gì, lắc đầu đi qua. Vì vậy mà mới một đêm đầu đã mất mấy dãy bao cát.
Nhưng rồi con đê đầu tiên cũng được thành hình. Lúc đó vào tháng 5, mưa chưa nhiều. Nước có thấm qua các bao cát chút chút, nhưng còn giữ nước lại được. Đến tháng 7, một trận mưa thật to suốt 3 tiếng đồng hồ (120 lít/m2). Sau trận mưa, Frère hí hửng ra thăm công trình, nhưng Chúa ơi !… con đê biến mất tiêu rồi, bao cát, cây khuynh diệp để tấn, trôi mất biệt.
Thất bại, nhưng Frère không nản lòng, nghĩ rằng dùng bao cát làm đê yếu quá, bây giờ phải chơi bằng xi-măng. Nhờ được tài trợ, Frère làm 5 đê liên tiếp trên một con suối, bề ngang 80cm và đào xuống đụng đất sét. Lần nầy, khi mưa đến, cũng có hư chút chút, nhưng sửa chữa dễ dàng và điều quan trọng là giữ nước được trong vài tháng mùa khô. Những người đầu tiên hưởng được nguồn nước nầy là dân làng và đàn gia súc của họ và lúc đó, người ta cũng thấy con cá sấu bơi vào, không biết từ đâu đến, bị dân làng bắt nhậu. Tội nghiệp con cá sấu!
Nhờ sự thành công của đập giữ nước đầu tiên nầy, Frère tiếp tục làm thêm những cái khác, tân tiến hơn, to lớn hơn… Nhưng « bể đập » vẫn còn xảy ra khi có những trận mưa lớn bất thường, như vào năm 2007 chẳng hạn. Frère Felipe không biết học từ đâu câu ngạn ngữ Trung hoa đã giúp Frère không bỏ cuộc : « Phải biết tìm cái tốt trong cái xấu và cái xấu trong cái tốt ». Và nhờ đó, Frère bắt đầu lại với sáng tạo, và tìm bạn bè, ân nhân hỗ trợ…Công trình của Frère cũng tạm ổn định, có ống dẫn nước hàng ngàn mét, có tấm năng lượng mặt trời cung cấp điện cho máy bơm, có trạm bơm đầy đủ. Hàng ngày có người đi tham quan để kịp thời sửa chữa những nơi bị sói mòn. Từ năm 2007, Frère Enrique, cựu Giám Tỉnh, chăm sóc, bảo trì, cải tiến các đập nước. Frère Felipe đã rời Tami về lại quê hương Tây Ban Nha ngày 7/6/2012 sau 13 năm hy sinh cho người dân Tami.
Ngày nay, người ta mới nhận thấy những đập nước nầy có tầm ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống của người dân vào mùa nắng :
  • Có nước uống là nhu cầu đầu tiên ;
  • Các bà các ông cũng có thêm thu nhập : đi lượm những cục đá rải rác trên những cánh đồng, mang đến bán lại cho mấy ông Trắng hoặc có thể được các ông thuê mấy người đàn ông đem những viên đá đó để xếp tấn đập hoặc lót một vài nơi bị xói mòn do nước chảy quá mạnh. Công việc nầy dường như thu nhập nhiều hơn và nhanh hơn là đi trồng trọt hay chăn nuôi ! Cho nên người ta nói, các cánh đồng không chỉ nuôi sống bằng hoa màu mà thôi, nhưng còn bằng những hòn đá cuội nữa.
  • Nhiều gia đình ngày nay có thể canh tác hoa màu vào mùa nắng để cải tiến lương thực, bớt suy dinh dưỡng, có chút tiền túi rủng rỉnh nhờ bán các sản phẩm ; nhiều đàn gia súc phát triển hơn; chim cò xuất hiện nhiều hơn ; nhà cửa cũng đã bắt đầu xây... Và người ta nói (không biết đúng không !) nhờ các đập nước nầy mà mưa trong vùng nhiều hơn.
  • Trung tâm thực nghiệm trồng hoa màu mùa nắng (centre maraicher) : Trung Tâm bắt đầu xây dựng từ năm 2001 và đến năm 2005 bắt đầu nhận những những học viên đầu tiên khi cơ sở vật chất hoàn chỉnh. Mỗi năm từ tháng 10 đến tháng 3, một nhóm học viên khác đến để được hướng dẫn và thực hành trồng hoa màu vào mùa nắng. Trung tâm nầy nhằm mục đích đào tạo những chuyên viên trồng rau để cung cấp nguồn tài chánh thêm cho dân làng trong mùa khô, cải thiện các bữa ăn và như thế có thể mang lợi ích nhiều cho sức khỏe cho cả gia đình. Các rau quả trồng chính trong mùa nầy thông thường là cà tô-mát và hành củ, cũng có các loại rau, bắp cải hay cà-rốt. Nhờ các đập nước, Trung Tâm nầy có cây cối xanh tươi trong suốt mùa nắng. Ngoài những hoa màu ngắn hạn, Trung Tâm cũng có trồng những cây ăn trái như xoài, chuối già lùn, đu đủ…và cũng có những ao nuôi cá…
  • Hội chợ nông sản : Trong chương trình sinh hoạt đồng hành với các học viên cũ và để những người dân làng có cơ hội trao đổi, so sánh và chiêm ngắm các sản phẩm của mình hay của kẻ khác làm ra, các cựu học viên và các học viên hiện tại của Trung tâm quyết định tổ chức ngày « Hội Chợ nông sản » hàng năm ở Tami. Lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1999. Ví dụ ngày hội chợ nông sản tháng 11 năm 2011, dân làng mang các sản phẩm của mình ra trưng bày rất đông đúc và vui vẻ. Những hội chợ đầu tiên chỉ nhằm mục tiêu trưng bày, giới thiệu sản phẩm, nhưng ngày nay thì chuyển dần sang kinh doanh. Và người dân cũng bắt đầu thay đổi quan niệm : không đơn thuần sản xuất gia đình, nhưng còn nhắm đến lợi nhuận. Vì vậy hội chợ nầy ngày càng trở nên quan trọng đối với dân địa phương, tâm trí người dân bắt đầu nghĩ đến ngày đó và người tham dự càng ngày càng nhiều. Ngày hội chợ năm 2011, các sản phẩm có khoảng 80 loại do 70 gia đình đem đến. Mỗi năm đều thấy có những sản phẩm mới. Ngày hội chợ nầy cho thấy sự đa dạng của các sản phẩm và sự chịu khó làm việc của người dân vùng sâu vùng xa hôm nay.
  • Chia lô trồng rau : Khi đến thăm các cựu học viên trong làng, một Frère mới phát hiện ra rằng gần một nửa học viên đã bỏ nghề. Lý do là họ không có đất để canh tác hoặc không có bò để cày, không có việc gì làm trong mùa khô và vì vậy một số người bỏ đi qua Côte d’Ivoire hay xuống miền nam Togo làm ăn và một số trong họ đã không trở về, bỏ vợ con ở nhà. Là vì, đối với người Phi Châu, một khi ra đi làm ăn thì khi trở về phải có mang tiền theo. Nhưng cuộc sống không mĩm cười với hết mọi người. Vì vậy một số bỏ xứ đi luôn. Còn những người ở lại trong quê thì phần đông chỉ có chút đất mà thôi. Và vì vậy mà các Frères nghĩ đến việc chia lô đất của Trung Tâm cho những gia đình nào cần canh tác thêm. Các Frères dành 4 mẫu chia làm 100 lô, mỗi lô 20m x 20m=400m2 bên cạnh đập nước để sử dụng vào mùa khô (xin xem bản đồ số 7). Từ khi các lô hoạt động có quy cũ từ năm 2007, đủ loại rau được trồng, gia đình tiêu thụ một ít, còn dư đem ra chợ bán. Ngoài ra họ còn học được cách làm sao giữ được lâu những rau quả mau hư như cà tô-mát, đậu…
  • Vườn trẻ : Khi các học viên đến tham dự khóa học thực hành, cả gia đình cùng đi. Vì con cái còn nhỏ, có gia đình có tới 4 đứa bé, nên họ lại phải mang theo một người giữ em để họ có thể rảnh rang học tập và thực hành. Frère Avelino (nhiệm kỳ 1994-1996) thấy nhu cầu phải kiếm một người để lo cho các người giữ em nầy. Chính từ sự việc nầy mà nảy sinh ý kiến mở một vườn trẻ tại trung tâm. Frère Felipe quyết tâm không để một người trẻ nào trên 6 tuổi ở trong trung tâm mà không đến trường. Còn nhỏ thì cho vào vườn trẻ, lớn một chút thì gởi ra trường « Frère Pablo ». Vì vậy mà các người giữ em cũng phải đến trường, kể từ năm 2002. Hiện nay, tại trung tâm có 20 gia đình học viên nội trú, vườn trẻ có đến 30 học sinh.
  • Trưng bày sản phẩm : Sau 3 tháng học tập, để khuyến khích các gia đình chăm lo học hành, Sư huynh Bề trên tổ chức một cuộc triển lãm các sản phẩm  như đan lồng nuôi gà, may túi xách… Tiêu chuẩn mỗi gia đình sản xuất mỗi loại 2 cái. Những sản phẩm làm ra được chấm điểm và có phát thưởng cho gia đình nào có sản phẩm đẹp nhất. Mỗi thứ bảy cũng có lớp dạy nấu ăn. Có thể lần sau sẽ có thi nấu ăn.
  • Tinh thần Liên kết (với các Đại học và các thiện nguyện viên): Trong chương trình đào tạo, Tami cũng liên kết với các đại học (Ví dụ : đại học Lleida, Tây Ban nha) trong ưu tư mở rộng tầm nhìn và làm cho kế hoạch của Trung tâm ngày càng cải tiến thêm lên, trung tâm tiếp nhận những sinh viên đi thực tế, trong lãnh vực phát triển ngành trồng trọt.  Nhiều thiện nguyện viên cũng đến giúp về bảo trì máy cày, dạy các giáo viên học sử dụng…
  • Vật lộn với truyền thống, phong tục : Chúng ta đang ở vào thế kỷ 21. Nhưng nhiều phong tục còn tồn tại đến ngày nay như: đàn bà không được ăn thịt gà mái – đàn bà không sở hữu thú vật nuôi, tất cả thuộc về người đàn ông và người đàn ông có quyền định đoạt quyền sử dụng - không nên cho trẻ con ăn trứng vì có nguy cơ làm cho chúng trở thành kẻ cắp – cho thú vật ăn ngũ cốc là phi lý vì đó là lương thực dành cho con người – trong vài làng, để cưới được vợ, phải có của hồi môn là 5 con bò – đàn bà và trẻ con không được coi trọng - bệnh hoạn thì đi đến thầy lang trước hết – cưới hỏi thì được cha mẹ hứa trước, không có chuyện từ chối - đàn bà sinh nở một cách tự nhiên, không đi đến bệnh viện bao giờ - Frère Pedro Alberdi kể lại ngài thường xuyên chở các bà đến nhà bảo sanh và Frère rất ngạc nhiên về sự tự nhiên, đơn sơ của họ. Họ sống một cách rất đơn sơ, rất nghèo nàn, rất tự nhiên như thời tiền sử, chẳng thấy gì là vô luân lý, là mất thuần phong mỹ tục – « Rừng linh thiêng » là một ngôi rừng, nhỏ thôi, khoảng vài ngàn mét vuông trở lại được gọi là « Rừng linh thiêng », nằm trong đất của Trung Tâm. Điều kiện giao đất ban đầu là không được phá khu rừng đó. Và hiện nay khu rừng vẫn còn. Chỉ thấy có một cây cổ thụ, phần còn lại, cây cối mọc um tùm.
f)     Những huynh trưởng cộng đoàn từ khởi sự đến hôm nay (2012)
  • 1971-1975 : Frère Patricio Arce + 2 sư huynh;
  • 1975-1984 : Frère Pedro Ibañez ;
  • 1984-1986 : Frère Pedro Alberdi + 2 sư huynh;
  • 1986-1994 : Frère Pedro Astigarraga + 8 sư huynh;
  • 1994-1996 : Frère Avelino Duque, Avelino Muñoz + 8 sư huynh;
  • 1996-1999 : Frère Denis Gnébé (người Phi Châu : Côte d’Ivoire);
  • 1999-2011 : Frère Felipe Garcia + 8 sư huynh;
  • 2011-……. : Frère Vincente + 2 sư huynh (01 Tây Ban Nha, 01 Việt-nam).
Những năm tháng đầu thật là vất vả. Người ta nói là đất bị chúc dữ, các già làng thì nghi kỵ, tiện nghi không có, không có nước, không có điện…. Chỉ có thiện ý và làm việc không mệt mỏi mà thôi. Nhưng mỗi Bề Trên, mỗi sư huynh đều cố gắng làm một cái gì đó để trung tâm mỗi ngày một hướng đến thực hiện ý tưởng ban đầu : làm cho « con người đứng lên ».  Đôi khi dưới cái nhìn của người khác, có người « chưa làm được gì ». Nhưng cái « chưa làm được gì » đó cũng là một kinh nghiệm để lại cho người sau tự hỏi tại sao.
Tạm kết
40 năm dài sống nơi vùng sâu vùng xa để biến thành hiện thực ý tưởng của vị Giám mục Hanrion. Các sư huynh để lại nhiều bài học :
1-    Kính trọng lịch sử của Trung tâm : Trung tâm được thành lập có một lịch sử của nó với mục tiêu mà Đức Giám mục quan niệm và các Frère đã chấp nhận khi đến đây : làm cho « con người đứng lên ». Rất La San. Tiêu chí nầy được thực hiện song song với việc rao giảng Phúc âm. Nhiều vị Bề Trên đến rồi đi, nhiều sư huynh khác cũng đến rồi đi. Mỗi vị đều làm một cái gì đó với khả năng của mình để đi đến mục tiêu ban đầu. Có vị có chuyên môn về lãnh vực trồng trọt, chăn nuôi. Có vị cũng chẳng có chút chuyên môn nào trong các ngành nầy. Nhưng tất cả đều tôn trọng lịch sử của Trung tâm và cùng nhau « xắn tay áo lên » thực hiện mục tiêu nhắm đến, mỗi ngày một cải tiến hơn. Thật sự lúc ban đầu việc tìm đường đi đến mục tiêu còn rất mù mờ. Vừa làm vừa học vừa tìm lối ra.
2-    Tin vào Chúa Quan Phòng : Như thánh Phaolô nói : kẻ trồng, người tưới… nhưng Chúa cho lớn lên và… người khác hái trái. Các sư huynh thật sự không dám ước mơ có kết quả tức thì. Tami ngày nay là thành quả của 30 năm về trước. Một số công việc được thực hiện  mà chúng ta thấy coi như là những thành công thì hầu hết thực sự nhìn lại chỉ mới từ sau năm 2000. Nghĩa là phải 30 năm dò dẫm. Đó là nói về tổ chức. Nhưng nếu nói về con người thì quả thật còn khó hơn gấp bội. Rất khó mà thay đổi tâm tính, thói quen, phong tục… và cả niềm tin nữa. Điều nầy chỉ có tin vào quyền năng của Chúa mà thôi.
Quả thật Đức Cha Hanrion không được diễm phúc để nhìn thấy ước mơ của ngài được phần nào trở thành hiện thực. Ngài qua đời vào tháng 4 năm 2000. Một con người có những xác tín rất mãnh liệt : phải thành công trong việc phát triển toàn diện con người bắt đầu bằng học nuôi sống mình. 
3-     Lòng kiên trì : Công trình lúc ban đầu rất gian nan. Như Frère Pedro Alberdi (1984-1986) kể : « Trong các báo cáo, người ta luôn luôn đặt đi đặt lại những câu hỏi : Công việc tiến triển đến đâu rồi ? Quan niệm người dân có thay đổi không ? Thật thế, những người ngồi ngáp thì lúc nào cũng muốn cân đo đong đếm các sự việc. Nhưng tôi có thể nói là cả bên Châu Âu, các công trình cũng không tiến nhanh như vậy đâu ! ». Lời phát biểu của sư huynh toát lên một sự kiên trì mãnh liệt và dám chấp nhận những thất bại để vượt qua.
4-     Luôn luôn bắt đầu lại với sáng tạo: Như Bề Trên Felipe lấy câu ngạn ngữ Trung Hoa làm châm ngôn sống : « Tìm thấy cái tốt trong cái xấu ». Nhờ đó mà ngài luôn bắt đầu lại khi gặp thất bại. Mỗi lần té thì lại đứng lên và mỗi lần bắt đầu lại thì có một sáng tạo mới để không đi vào vết xe cũ. Rồi thì cũng đến nơi.
5-     Đồng hành đến cùng : Như người Samaritanô đồng hành với người bị cướp đánh bên vệ đường, băng bó vết thương, bỏ lên lưng lừa đưa về khách sạn và hôm sau còn đưa tiền cho chủ quán trọ, dặn chăm sóc tử tế, thiếu bao nhiêu khi về sẽ trả lại. Chính do sự đồng hành đến cùng nầy mà các sư huynh mới bất ngờ biết được những khó khăn của những học viên khi trở về lại làng của mình mà không có đất dụng võ. Cho nên một số phải rời bỏ quê hương lên đường kiếm sống. Và như vậy mới có sáng tạo mới : chia lô cho những người cần canh tác muốn đến làm trong mùa khô.
Rốt cuộc, Trung Tâm đem lại điều gì cho dân làng. Chúng ta cùng nghe bà Agdjoa Bedam, học viên năm 1999-2001 kể lại. Bà không biết tiếng Pháp vì thời đó chưa có lớp dạy tiếng Pháp, lớp xóa mù chỉ bắt đầu năm 2001. Vì vậy nhờ một giáo viên dịch lại rằng : Bà đã đi dự thêm khóa trồng hoa màu năm 2008 vì trước kia hai vợ chồng trồng ngũ cốc kiếm không được nhiều vì không có tiền mua phân mà bán thì lại rẻ và bà muốn giúp chồng mình. Bà rất hài lòng về khóa học trồng hoa màu. Gia đình nhờ đó ăn uống khá hơn tuy chưa bán được một phần hoa màu. Con cái đã được đến trường và bà vui mừng vì có mối quan hệ tốt với chồng con và cùng chung nhau làm việc. Bà học được nơi trung tâm cách giữ gìn rau quả như cà chua không bị hư thối và có vài thứ khác để dùng được cả năm. Trước kia, bà chưa bao giờ thấy cà tô-mát. Sau khóa học, bà cũng mướn một lô đất của Trung tâm để trồng hoa màu trong mùa nắng. Hiện nay Agdjoa có 4 đứa con, đứa nhỏ nhất 2 tuổi : ba đứa lớn đi học trường « Frère Pablo ».
Mục tiêu của Trung Tâm đã đạt : làm cho « con người đứng lên ».  
Chuyện không lạ.
1-    Ở đâu cũng giống nhau.
Những em bé lang thang ngoài đường phố Saigon, gặp khách ngoại quốc thì đưa tay ra và nói « money ! money ». Bên Campuchia cũng thế. Và bên Togo cũng vậy. Khi bạn là người ngoại quốc lang thang ngoài đường thì trẻ con rất niềm nở nói : « Bonjour…. bonbons (kẹo) ». Một ngày kia, chúng cũng chào ông Bề Trên Tây như thế, ông trả lời tỉnh queo: « Bonjour, bonbons au marché (kẹo ngoài chợ, ở đây không có) ».
2-    Khác nhau cái cuốc
Khi mới đến Togo, bạn sẽ thấy người dân cặm cụi cúi xuống rất sâu để cuốc đất ngoài đồng, giống như Việt Nam cấy lúa, hay gặt lúa vậy. Chỉ tại khác nhau cái cuốc thôi: Cán cuốc ở đây rất ngắn, khoảng 60cm ; lưỡi cuốc nghiêng về phía cán rất nhiều. Vì vậy, muốn cuốc cho được, phải khum xuống sâu, cho cán cuốc song song với mặt đất thì cuốc mới được.
Nhật Nhật Tân FSC

0 comments:

Đăng nhận xét